Total Pageviews

Saturday 14 December 2013

Bán Than về Lớp dịch mở lòng của tui - Mai Hoa Dịch Số

Hic... tưởng đâu làm xong bài tập mà có phải xong hết đâu, chỉ mới tính được có 1 giờ Tý thôi hà... vậy mà mừng húm sợ BDH lấy lại chìa khóa lớp học.. lật đật nộp bài cho xong...

Ai dè, đi lượn một vòng sang các phòng học khác mình thấy buồn quá đi... Các bạn trẻ học hành nắm bắt nhanh thật, lại có phần lý giải độc đáo dễ hiểu...hic.hic..

Chắc có lẽ mình sẽ dành một tuần để sắp xếp lại hết các hệ thống bài học để được logic và khoa học hơn, chứ ko có bị lộn xộn như bây giờ.

Ai biểu, người ta có 1 nghề thì kín, còn mình có tới 9 nghề thì hở là vậy.

Aiiiiii yaaaaaaaaaaaaaaa, Bài tập ơi cho tui bán than tí ~

Muốn kinh doanh buôn bán cần có những yếu tố nào?

Xem các bộ sao trên lá số Tử Vi để biết trước mình làm nghề kinh doanh buôn bán được không?

Các sách Tử Vi đã xuất bản thường cho rằng muốn kinh doanh, buôn bán, thì mệnh thân, tài, quan… phải tránh được các sao thanh cao, đứng đắn, đạo mạo (như Tử Vi, Thiên Phủ, Cự Nhật, Quan Phúc, Khôi Việt, Cáo Phụ, Thai Tọa, bộ Tứ Đức…) và cần có các sao chủ về tài lộc, tiền bạc, tháo vát, thủ đoạn, xoay xở giỏi (như Vũ Khúc, Song Lọc, Đại Tiểu Hao mão dậu, Cự Cơ mão dậu, Không Kiếp, Tả Hữu, Nhật Nguyệt v.v.).

Tiêu chuẩn tổng quát này xét ra không phải là sai lầm, nhưng khi áp dụng vào nhiều trường hợp thì tôi thấy không ứng nghiệm chút nào, vì đâu có phải ngành kinh doanh không hợp với người đứng đắn, đành rằng trên thương trường nếu ta thành thực quá thì đương nhiên là bất lợi, khó giàu lớn.

Để khỏi lý luận dài dòng có thể làm cho quý bạn thấy nhàm tẻ, tôi xin nêu ra đươi đây nhiều cách ứng nghiệm cho ngành kinh doanh mà tôi đã gặp trong các lá số.

Đây tôi chỉ đề cập đến những người thực sự đi vào ngành này chứ không kể đến những người chỉ vì sinh kế nhất thời mà phải miễn cưỡng buôn bán. Và qua các trường hợp sau đây quý bạn sẽ thấy tiêu chuẩn tổng quát nêu trên bị đảo lộn hết.

Tử Phủ hội Kình Dương (theo phú “Tử Phủ Kình Dương tất cự thương”):
Ta thấy hai sao đứng đắn Tử Phủ khi gặp Kình Dương lại trở thành buôn bán lớn (cự thương), nhưng lẽ tất nhiên buôn bán hợp pháp, đứng đắn, có cơ sở quy mô, có nhiều nhân viên, có vốn vững vàng, nhất là khi có thêm Khôi Việt, Tả Hữu, Xương Khúc, Long Phượng, Quang Quý thì càng dễ làm giám đốc, quản lý xí nghiệp lớn.

Tuy nhiên, trong trường hợp này cần tránh được Hình, Kỵ để khỏi gặp cạnh tranh gây go có thể đưa đến thù oán kiện cáo; nếu chỉ có Hóa Kị thì không sao nhưng cần phải chuyên ngành kim khí (nếu tọa thủ tại mệnh thì hay có bệnh ở hạ bộ).

Ngoài ra cũng cần tránh được Hỏa Linh để tránh được vấn đề về trộm cắp, gian tham của người dưới quyền, nhất là khi các sao này chiếu cung Quan hoặc cung Nô. Cũng có người cho rằng nếu chi có Tử Vi (không có Thiên Phủ) hội Kình và Quyền Lộc thì “tuy mỹ cát nhi vô đạo”, tức là tuy tốt nhưng bất chính, nhưng tôi nghiệm thấy không đúng mấy.

Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc hội Thiên Mã (tức là cách “Lộc Mã giao trì”, có câu phú “Giao trì Lộc Mã tiền tài đầy kho”)

Có vị Tử Vi cho rằng Lộc Mã ở đây là Lộc Tồn chứ không phải Hóa Lộc, nhưng tôi nghiệm thấy cả hai sao cùng ứng nghiệm. Gặp trường hợp này cần phải rời nơi sinh trưởng đi buôn bán nơi xa mới phát đạt, hoặc ít ra phải kinh doanh bằng cách di chuyển luôn luôn. Tôi cũng cần lưu ý quý bạn là nếu Thiên Mã ở cung Dần thì không nên đi xa quá vì đây là cách “mã hưu lan” (ngựa còn ở trong chuồng vì giờ Dần ngựa chưa đi ra goài). Còn gặp trường hợp Thiên Mã ở cung Hợi tức là “mã cùng đồ” (ngựa hết lối đi) thì lại không nên đi đâu cả. Có người cho rằng nếu Âm Nam, Dương Nữ thì ngựa vẫn đi được và còn cho rằng phải xét xem mạng của mình có hợp với ngũ hành của Thiên Mã (hỏa) hay không. Tôi không phê bình điểm này vì chưa nghiệm được.

Mã ngộ Tràng sinh thanh vân đắc lộ.

Câu này thì hầu hết quý bạn đều biết. Tôi chỉ xin nói thêm là cần phải tránh Tuần Triệt, nhất là Triệt, thì việc buôn bán mời xuông xẻ, và tránh được Đà La để khỏi bị thương tích, tai nạn, nhất là khi hai sao này ở Mệnh. Vả lại, chính sao Đà La cũng ngăn trở việc kinh doanh không ít. Hơn nữa, cách này cũng chưa đủ mạnh nên còn cần có thêm một cách tốt trợ lực nữa thì mới phát đạt, nhất là Song Lộc.

Ngoài ra còn phải tránh được hai sao Cô, Quả để tránh cảnh “đơn thương độc mã” trên đường kinh doanh vì không có lẽ kinh doanh một mình, không có khách hàng, không có ai cộng tác. Vũ Khúc hội Thiên Phủ (cách Vũ Khúc, Thiên Phủ đôi kim tích ngọc) Cách này mà gặp thêm Song Lộc thì buôn bán, kinh doanh thịnh vượng, phát đạt lắm, và nếu không có Song Lộc thì cần có Song Hao mão dậu để tiền bạc được luân chuyển, sinh lời vì nếu chỉ có Vũ Phủ (đều tượng trưng cho các kho) thì tiền bạc chỉ để trong ngân hàng hoặc trong két bạc mà thôi.

Ngoài ra, lại cần phải người mạng Thổ hay Kim thì mới hợp cách này vì Vũ Khúc là Kim và Thiên Phủ là Thổ, tuy nhiên phải chịu thiệt thòi về phương diện tinh thần, nghĩa là hay bị cô đơn, khó lập gia đình, nhất là khi có thêm Cô Quả, Kiếp Sát, Thiên Hình (dù trong trường hợp Vũ Khúc Thiên Phủ cư Phúc Đức thay vì cư Mệnh) Cự Nhật dần thân Nhiều thầy Tử Vi nói rằng Cự Nhật cư mạng chỉ làm chức lớn trong chính quyền vì có câu phú “Cự Nhật dần thân qua phong tam đại”. Kể ra cũng đúng lắm, nhưng tôi đã gặp một trường hợp “trật đường ray”, nghĩa là không có chức phận trong chính phủ mà làm giám độc một hãng tư. Tôi xin tóm tắt là số trong trường hợp trên:

Mạng đương số thuộc Thổ, mệnh cư Dần có Cự Nhật hội Quyền Lộc, Xương Khúc, Thân cư Tài vô chính diệu, do đó mạng Thổ không ưa cung Dần thuộc Mộc mà dựa nhiều vào Thân (cư Tuất thuộc Thổ) và khi Thân vô chính diệu thì phải kiếm chính tinh bên ngoài, nhưng Cơ Lương xung chiếu lại thuộc Mộc không dùng được nên phải hướng sang Cự Nhật và lại hợp được vì Cự Môn dưỡng cung Mộc để Mộc sinh Thái Dương (hỏa) rồi Thái Dương sinh mạng Thổ (theo lý “tham sinh võng khắc”), vì vậy, cung Thân hưởng trọn. Cự Nhật, nhất là có thêm Hóa Lộc thuộc Thổ và Khôi Việt thuộc Hỏa sinh Thổ, để chuyển đổi câu phú trên thành “Cự Nhật cư Tài, phi quyền tắc phú”, mặc dầu thực sự Cự Nhật không cư Tài, nhưng theo lý ngũ hành thì hoàn toàn ảnh hưởng cho cung Tài. Do đó đương số không làm việc trong chính phủ cũng phải, nhất là Thân đâu có cư Quan.

Vũ Khúc hội Thất Sát ở Mão

Có cách này cũng có khiếu về buôn bán nhưng hơi gian hùng và ưa cạnh tranh vì có Liêm Tham đồng cung tại Tài Bạch. Tuy vậy, không thể buôn bán lớn được mà cần phải làm những “affaire” lặt vặt thì chắc ăn hơn.

Tử Vi hội Hóa Lộc và Nhật Nguyệt
Cách này rất giàu sang, buôn bán dễ dàng, hay gặp may, một vốn mười lời. Đó là cách “phú quý bất khả ngôn”, nhưng cần phải là người mạng Thổ hay Kim hoặc Hỏa mới ứng nghiệm. Nếu là người mạng Thủy hoặc Mộc thì chỉ trung bình thôi.

Thái Dương miếu địa hội Quan Phúc và Hóa Lộc
Cách này gọi là cách “Phúc lộc hà sa” nên đương nhiên làm ăn, buôn bán thịnh vượng không thể tưởng tượng được, nhiều khi ngồi chơi cũng vẫn phát tài. Và đặc biệt cách này lại rất cần gặp Cô Quả vì Thái Dương trong trường hợp này dư sức “tự lực tự cường” cho nên không cộng tác với người khác mới hưởng trọn vẹn được mọi mối lời, chứ nếu không có Cô Quả thì tiền lời sẽ bị chia năm sẻ bảy, đâu còn hay nữa. Cách này trái ngược với cách “Mã ngộ Tràng Sinh thanh vân đắc lộ” nêu trên về khía cạnh Cô Quả. Ngoài ra lại phải cần người mạng Hỏa hoặc Thổ mới đúng cách.

Cơ Cự mão dậu
Cách này gọi là “phú hữu lâu dài” phải cần có Song Lộc hội chiếu hoặc có Song Hao “chúng thủy triều đông” mới thành công mỹ mãn trên thương trường.

Tôi cũng cần nhắc lại với quý bạn là Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn không được đồng cung với Cơ Cự vì lý do ngũ hành, Song Hao thì trái lại phải đồng cung với Cự Cơ.
Chắc các bạn còn nhớ câu “Song Hao mão dậu ái ngộ Cự Cơ tối hiềm Hóa Lộc” chứ !

Mệnh vô chính diệu đắc tam không nhi phú quý khả kỳ
Cách này nếu chỉ đơn thuần như vậy (có nghĩa là chỉ có ba Không) thì vẫn chẳng nên trò trống gì, phải cần có Song Lộc hội chiếu và nhất là phải là con một trong gia đình, không được có anh hay em trái (có thể có chị em gái). Và dù có được như vậy cũng không có lâu bền mặc dầu có lúc ít ai bằng mình, nhưng thế mới đúng nghĩa chữ “khả kỳ”. Ngoài ra còn cần phải cộng tác với một hoặc nhiều người khác và mình nhận vai trò cố vấn, phụ tá hoặc phó thì mới thành công và lâu bền. Về điểm này cụ Hoàng Hạc đã nêu ra và tôi thấy rất đúng vì trong họ hàng tôi đã có mấy người có cách này.


Friday 21 October 2011

Đoán Tiểu Hạn Phải Linh động !

Trich Nguon: BAO KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRUOC 1975 (tuvilyso.org)

Những trường hợp :
THIÊN HÌNH, THIÊN MÃ VÀ ĐÀO HỒNG NHẬP HẠN 

Như các bạn đã biết việc giải đoán tiểu hạn có thể nói là rắc rối, phức tạp nhất.

Tôi chỉ xin khép lại giới hạn từ "linh động" trong chủ đề này mà thôi, thực ra việc đoán Tử-vi thì rất mênh mông vô cùng. Vì vậy hôm nay tôi thiết nghĩ không phải là vô ích khi trở lại vấn đề nêu trên.

Qua một số cách giải đoán về tiểu hạn về Tử-Vi, tôi có một nhận xét chung là họ đều câu nệ ý nghĩa nguyên thủy của các sao nhập hạn quá mức đến nỗi mắc phải những sai lầm nặng nề trong việc giải đoán vận hạn.

Ví dụ như khi thấy Thiên Hình nhập hạn thì vội cho là sẽ bị thương tích, mổ cắt, giải phẩu..... ;

thấy Thiên Mã (nhất là thêm Lưu Thiên Mã) là chắc bẩm sẽ có sự thay đổi, thuyên chuyển công tác ...; thấy Đào Hồng thì liền nghĩ tới vấn đề tình ái, ngoại tình hoặc sinh con v.v....

Tôi rất đồng ý là ta cần phải học thuộc đặc tính của các sao, nhưng khi giải đoán, nhất là về tiểu hạn, ta cần phải uyển chuyển và linh động chứ không thể áp dụng một cách máy móc được.

Như khi thấy trời mây đen u ám, sấm chớp ầm ầm, ta đừng vội quả quyết (!?) là sẽ mưa lớn vì thực ra có khi chẳng hề có một giọt mưa nào, do gió thay đổi chiều chẳng hạn ...

Vậy đặc tính của các sao có thể ví với hiện tượng về thời tiết nghĩa là diễn tiến hoặc kết quả dễ bị thay đổi, và nhiều trường hợp đặc tính của các sao bị biến đổi đến mức ta không còn liên tưởng nổi tới ý nghĩa riêng của chúng nữa. Bây giờ, để quý bạn đọc dễ hiểu tôi thấy không có cách gì khác hơn là nêu ra dưới đây nhiều trường hợp ứng dụng, chứ không thể nào đưa ra một số nguyên tắc hoặc phương phương-thức để giải đoán, vì phạm vi đề tài này rất mông lung, rộng lớn mà chỉ có nhiều năm kinh nghiệm và thực tập mới có thể thành thạo được.

(1) THIÊN HÌNH NHẬP HẠN
Có một độc giả tâm sự với tôi rằng ông rât sợ Thiên Hình nhập hạn vì cứ năm nào gặp nó là mang thương tích liền (như tông xe, xe đụng mình hay bị máy cắt, hàn .... trong cơ khí làm tổn thương các bộ phận trên thân thể người, hay trong chiến tranh phải giẫm phải bom, mìn v.v....), đến nỗi bây giờ trên người ông đầy chiến thương (!), và ông khen lấy khen để khoa Tử-vi thật là vi diệu và ứng nghiệm. Tuy nhiên ông có nêu ra một thắc mắc là không hiểu tại sao anh của ông ta gặp hạn Thiên Hình chẳng bao giờ bị một vết trầy da mà lại còn hạnh thông mới kỳ lạ chứ !

Ông này có gửi cả hai lá số cho tôi để nhờ giải đáp. Điểm ông thắc mắc kể ra chẳng có khó hiểu, vì ông không chịu phối hợp với Mệnh, Thân và một vài yếu tố khác. Ông ta bị thương lu bù là phải vì Mệnh của ông có Thất Sát hội Kình Dương cư Ngọ mà Đại Hạn lại có Hỏa Linh, Không Kiếp cho nên Tiểu hạn mà có Thiên Hình (dù là bàng chiếu) thì khó tránh được tai nạn.

Còn anh ông ta là một nhà Điêu khắc sư (do ông cho biết) cho nên gặp hạn gặp Thiên Hình lại tốt vì Thiên Hình ứng vào : búa, đục, dao, kéo .... tức là đồ nghề chuyên môn để tạo nên những pho tượng hoành tráng, tuyệt mỹ, nhất là hạn lại thêm Xương Khúc, Hỷ Thần và xa lánh được những hung sát tinh (ở Đại Hạn cũng như ở Tiểu hạn), như thế làm sao chẳng hạnh thông. Nếu anh của ông không gặp hạn có Thiên Hình, đương nhiên là yếu đi vì đã là điêu khắc sư mà lại thiếu đồ nghề, dụng cụ thì làm sao thực hiện các tác phẩm của mình.

Cũng như trường hợp các nhà Luật (như : Thẩm phán, Bào chữa, Luật Sư .... ) nếu gặp hạn có Thiên Hình thường thêm uy quyền vì Thiên Hình chủ về cứu xét, thanh tra, kiểm tra ... miễn là không gặp nhiều hung sát tinh làm thay đổi sự ứng dụng của Thiên Hình.

Nhưng, những người nào có mạng hay bị tù tội (như có Liêm-Tham ở Tỵ- Hợi hội hung sát tinh) mà gặp hạn có Thiên Hình, thì rất đáng ngại, vì Hình lúc đó chủ về cây bút để viết thành bản án, nhất là khi có thêm Xương-Khúc tượng trưng cho văn kiện, giấy tờ.

Những trường hợp trên đây tương đối dễ tìm hiểu, nhưng có trường hợp rất khó giải đoán, như hạn gặp đủ cả Hỏa Linh, Hình, Không Kiếp, Kình Đà, Phục ... ai mà chẳng e ngại tai ương xảy ra. Thế mà có khi lại tốt đẹp nếu các sao này nhập hạn ở cung Điền-Trạch mà đương số là một điền chủ vì các sao này ứng vào các nông cụ, tá điền, máy cày ... khiến cho ruộng đất trở nên phì nhiêu, mùa màng tốt đẹp, nhưng nếu chẳng may các sao trên nhập hạn cung Giải Ách thì đương số bất luận là ai cũng dễ chết phi mạng.

Riêng tôi năm nay có Đại hạn-Tiểu Hạn trùng phùng có Thiên Phủ hội Thiên Hình, Tứ linh, Xương Khúc, Diêu Y, Tứớng Ấn, Quan Phúc .. tại cung Thê. Mạng đồng hành với Chính tinh là Thiên Phủ, Thiên Hình và không có Lục sát tinh hội chiếu, nên ứng vào một khía cạnh hơi đặc biệt, xin kể cho các bạn biết là tham gia và gửi bài vào các diễn đàn học thuật, phải chăng Thiên Hình ngày nay ứng vào máy vi tính, Internet, các phương tiện truyền thông tin ...

(2)- THIÊN MÃ NHẬP HẠN
Về sao Thiên Mã cũng vậy, đa số các bạn cứ nghĩ rằng là cứ có sao này nhập hạn mà lại gặp thêm cả Thiên Mã lưu niên thì 100 % là có sự thay đổi nhà cửa, công danh ... Tin tưởng như thế cũng không phải là hồ đồ vì thực ra có rất nhiều trường hợp ứng nghiệm, nhưng muốn cho chính xác hơn ta vẫn phải phối hợp với nhiều yếu tố khác. Nếu không phối hợp thì vô hình trung ta đã giải đoán theo kiểu "serie", không khác gì chỉ căn cứ vào năm sinh như các cẩm nang hàng chợ Tử-vi hàng năm bày bán trên thị trường.


Thực tế, ví dụ chẳng hạn như năm nay là năm Ất Mão , Lưu Thiên Mã ở cung Tỵ gây ảnh hưởng thay đổi cho rất nhiều tuổi, như tuổi Dần, Hợi (Nam), Sửu (Nữ) v.v... là những tuổi Tiểu Hạn năm Mão ở cung Tỵ, đó là chưa kể đến nhiều tuổi khác cũng gặp Lưu Thiên Mã chiếu. Nếu Tiểu hạn ở cung Hợi, Dậu, Sửu, Thân. Nhưng trên thực tế chắc chắn là ta không thể thấy các tuổi đó đều gặp sự thay đổi, ngay cả các tuổi Tiểu Hạn đi đến cung Tỵ. Đặt vấn đề như thế không có nghĩa là tôi phủ nhận ý nghĩa nguyên thủy của sao Thiên Mã, cố định cũng như lưu niên, nhưng tôi muốn nói rằng, ý nghĩa đó luôn luôn bị biến đổi dưới nhiều hình thức hoặc có trạng thái khiến cho ta nhầm lẫn, mặc dầu sau khi sự việc xảy ra ta vẫn thấy ý nghĩa của sao Thiên Mã phần nào. Ở đây tôi không bàn đến cách giải đoán bình thường của sao Thiên Mã (nhất là lưu Thiên Mã) như các sách Tử-vi đã nêu ra. Tôi chỉ muốn đề cập tới một số trường hợp mà " hiện tượng" Thiên Mã đã chuyển biến hoàn toàn : - Tôi có được xem một lá số Tiểu hạn đi tới cung Thiên Di gặp đủ các sao Thiên Mã cố định lẫn lưu niên và còn thêm cả Thiên Đồng. Như thế ai chẳng chắc đoán là đương số di chuyển không xa thì gần, nhưng suốt cả năm không thấy đương số đi đâu cả mà cũng chẳng hề có chuyện thay đổi việc làm, chức vụ hoặc nhà cửa ... Sau khi thấy không ứng nghiệm, tôi liền nghiên cứu lại lá số đó và vẫn không hiểu nổi tại sao ?. Mặc dầu cũng cố tìm ra được một yếu tố là Mạng của đương số thuộc loại " ru rú xó nhà " (có Thiên Phủ hội Long-Phượng, Thai-Tọa đồng cung) mà Đại hạn không có môi trường gì thuận lợi cho việc di chuyển, nhưng riêng về Tiểu Hạn tôi vẫn ấm ức không biết Thiên Mã đã ứng vào khía cạnh nào.

Về sau tình cờ đương số cho to tôi biết là người anh ruột của đương số ở ngoại quốc học mới về sau khi tốt nghiệp bậc Đại Học bên Tây. Lúc đó tôi mới vỡ lẽ ra và thấy ý nghĩa của sao Thiên Mã vẫn ứng nghiệm, nhưng đã thay đổi hiện tượng quá nhiều...

Thường thường Tiểu hạn đến cung Tài-Bạch gặp Lộc-Mã lưu niên ai mà chẳng nghĩ tới chuyện di chuyển vì kinh doanh, buôn bán hoặc ít ra công danh cũng thay đổi không nhiều thì ít, nhưng trên thực tế tôi đã gặp nhiều lá số với Tiểu hạn như vậy mà chẳng hề có việc di chuyển hay thay đổi gì. Trường hợp này tuy khác thường nhưng không khó giải đoán lắm, vì tôi đã gặp khá nhiều lá số có "lộ" ra chiều hướng đó. Quý bạn chỉ cần cân nhắc xem đương số có thuộc loại người xoay xở, bôn ba, bon chen để làm giàu hay không ? (khía cạnh này chắc các bạn cũng tím ra được) rồi coi tiếp Đại hạn có khuynh hướng buôn bán hay không ? Nếu đều không cả, thì gặp Tiểu hạn như trên chẳng thể có di chuyển hoặc thay đổi gì về sự nghiệp.

Và khi đó thường thường Thiên Mã ứng về Tài Lộc bất ngờ , như ở trên trời rớt xuống, nghĩa là có thể trúng số lớn hoặc được ai cho một món tiền đáng kể nhất là khi có thêm Song-Hỷ và Không Kiếp đắc địa tại Tỵ hoặc Hợi, hoặc được Đại Hạn có Khôi Việt, Quang Quý, Quan Phúc chủ về môi trường thuận lợi cho tiền bạc vào bất ngờ một cách mau chóng và lợi lạc. Trường hợp trên Thiên Mã không khác gì " Sứ giả " tài lộc đem tiền lại cho mình và như thế ý nghĩa sao đó vẫn còn tồn tại. Sau hết tôi xin nêu ra trường hợp Tiểu hạn đi đến cung Quan Lộc có đủ cả hai sao Thiên Mã cố định và lưu niên rồi lại còn có cả Thiên Không và Thiên Đồng hợp chiếu, nghĩa là gồm đủ các yếu tố thay đổi cho công danh, chức vụ (vì Tiểu hạn ở cung Quan Lộc) Thế mà vẫn có một vài "ca" chẳng hề thay đổi mới nhức đầu chứ !

Đó là trường hợp lá số có cung Quan Lộc quá bền vững, lâu dài (như có Long Phượng hội Khoa, Quyền, Lộc, Thai Tọa v.v...) đồng thời Mạng không đồng hành với các sao có đặc tính thay đổi tọa thủ tại cung (tức là Thiên Mã trong trường hợp này) và cung Mệnh không có yếu tố hay bị thay đổi hoặc thích thay đổi khiến cho Thiên Mã phải chuyển hướng ứng nghiệm, nghĩa là làm cho những người đồng nghiệp của mình (trên cũng như dưới) phải bị thay đổi, sa thải hoặc thuyên chuyển (ngày nay gọi là sáo trộn nhân sự tại cơ quan), vì thực ra các sao ở cung Quan Lộc đâu có phải chỉ ứng vào cá nhân mình mà còn chi phối cả những người cùng làm xung quanh mình. Do đó, gặp trường hợp trên nếu quý bạn cứ quyết đoán là đương số thay đổi công dạnh, chức vụ, sự nghiệp... thì có phải là " hố " nặng nề không ?.

(3)- ĐÀO, HỒNG NHẬP HẠN
Sau hai sao Thiên Hình và Thiên Mã, tôi cần bàn thêm về các sao Đào Hồng nhập hạn thường là một đề tài sôi nổi và gay cấn cho nhữing người mới nghiên cứu Tử-vi, Nam cũng như Nữ. Thực tế, khi thấy Đào Hồng nhập hạn, người thì cho rằng ứng vào thai nghén, sinh đẻ, người thì nghi ngờ sẽ có chuyện tình ái, vương lụy ... kẻ thì mừng là sẽ gặp tin vui, may mắn bất ngờ v.v...

Đúng ra những điều trên bình thường vẫn xảy ra nhưng khi gặp những trường hợp phức tạp, ý nghĩa này sẽ không còn ứng nghiệm nữa. Ví dụ như có người hạn gặp Đào Hồng chẳng những không được may mắn mà còn bị lường gạt, mưu hại do các sao Hóa Kỵ, Phục Binh, Không Kiếp, Tả Hữu gây ra, nhất là khi tiểu hạn đi đến cung Nô Bộc, Thiên Di, Quan Lộc hoặc Tài Bạch.

Còn về chuyện vương lụy, tình ái ... cũng vậy. Nhiều khi Đào Hồng hội đủ cả Song Hỷ, Thai, Mộc Dục, Hoa Cái nhập hạn mà suốt năm chẳng thấy có gì liên hệ đến phương diện tình cảm, chứ chưa nói tới tình ái. Đó là trường hợp cung Mệnh của đương số đứng đắn , đàng hoàng, chí thú làm ăn mà Tiểu Hạn đi đến cung Điền Trạch, vì khi đó các sao " lả lướt " mất môi trường hoạt động và chuyển sang ý nghĩa tô điểm, sửa sang nhà cửa cho sáng sủa, đẹp đẽ hơn hoặc thay đổi những đồ cũ và sắm bàn ghế, giừơng tủ, đồ đạc, xe mới .... Viết bài hôm nay, tôi không dám có chủ đích chỉ dẫn quý bạn giải đoán cho thật chính xác Tiểu Hạn vì khía cạnh này rất mênh mông và khó khăn mà chính tôi nhiều khi cũng điên đầu không sao tìm ra được những điểm sai lầm hoặc không ứng nghiệm. Tôi nêu ra những trường hợp kể trên chỉ cốt giúp quý bạn có một ý niệm tổng quát về ý nghĩa linh động của các sao Tử-Vi ; nhất là về Tiểu Hạn để tránh được phần nào thất vọng khi gặp những lá số rắc rối, phức tạp hoặc mơ hồ, dễ khiến chúng ta lầm lẫn./. KHOA HỌC HUYỀN BÍ

Nguồn: http://tuvilyso.org/forum/index.php?/topic/4938-tap-chi-khoa-hoc-huyen-bi-truoc-1975/
Copyright © TuViLySo.org

Cây Thước Lỗ Ban

"Kẻ ngu biết mình ngu, đích thị là hiền trí.
Ngu tự cho mình trí, mới thật là chí ngu...."


Tác Giả: Quảng Đức.

Lịch Sách Xuân Ât Mẹo 1975, Chiêm Tinh Gia Huỳnh Liên có viết về cây Thước Lỗ Ban và dạy cách sử dụng. Theo Thầy thì cây Thước có độ dài nhứt định là 5 tấc 3 chia cho 8 cung lớn. Mỗi cung lớn 6,5 cm lại chia thành 5 cung nhỏ, mỗi cung nhỏ dài đúng 1 phân. Thầy dặn dò kỷ là nếu quý bạn đọc đã có nhà cữa xây cất xong lấy thước đo thấy xấu thì sửa lại. Bằng như chưa cất nhà muốn đo cửa tốt thì lựa cung tốt mà làm khuôn cửa đúng ni tấc thì được mỷ mãn hơn. Khi đo bắt đầu đặt cây thước vào mí của mép cửa bên trái rồi đo lần sang mép cửa bên mặt. Luôn luôn phải đặt cung số 1 tức cung Quý Nhơn nằm phía tay trái, rồi đo lần qua tới chổ nào thì coi lời giải mà biết tốt hay xấu, đó là cách đo cửa nhà đã xây rồi. Nếu chưa xây cửa, thì quý bạn đo tới chổ cung nào tốt và hạp nhất thì dừng lại và ấn định cửa tới nơi đó sẽ xây. Quý bạn đọc nào lở xây cửa xấu, không đúng với thước Lỗ Ban nên tìm tới Thầy để Thầy chỉ dẩn cho cách cúng quảy sửa chữa lại để gia đình làm ăn phát đạt.

Mấy năm trước đó có nhiều gia đình thỉnh Thầy đến đo cửa đo nhà, ít lâu sau quả làm ăn phát đạt thật. Danh của Thầy nổi như cồn, khách hàng xếp lớp. Có người cho rằng Thầy có Bùa thiêng, cũng có người cho rằng Thầy nhờ có cái Thước Lỗ Ban Bát Trạch. Biết được Thầy có chỉ vẽ cách làm Thước Lỗ Ban thì cuốn Lịch Sách Xuân Aùt Mão được rất nhiều gia đình mua về làm tài liệu tham khảo và cũng đã có rất nhiều ngườiõ theo đúng hướng dẩn cuả Thầy mà làm Thước Lỗ Ban. Không hiểu tại Thầy dấu nghề hay do ngẫu nhiên trùng hợp mà không ít gia đình sau khi có cái thước Lỗ Ban trong tay là ngay mùa Xuân năm đó phải bỏ nhà cao bay xa chạy ra nước ngoài, một số khác vào trại tập trung cải tạo mút mùa, số còn lại thì cũng phải bỏ nhà bỏ cửa để đi kinh tế mới. Về sau biết được hoàn cảnh của Thầy cũng bi đát như khách sau ngày 30 tháng 4, cho nên không ai còn dám nghĩ là Thầy dấu nghề, mà cho rằng đó là do ngẫu nhiên trùng hợp mà thôi. Thế nhưng khi đem 5 tấc 3 chia cho 8, số thành là 6 phân 5 ly và đem 6 phân 5 ly chia cho 5, số thành là 1 đúng như hướng dẫn của Thầy thì quả thực sai số quá lớn. Cung này cách Cung kia cách nhau chỉ bằng sợi tóc mà sai số lớn như thế thì cái Thước Thầy hướng dẫn làm sao mà linh thiêng cho đặng ? Cho rằng lỗi tại nhà in, cây thước phải dài 5 tấc 2 mới đúng. Thì cứ coi như là 5 tấc 2, nhưng lấy độ dài này chia cho 8 rồi lại chia cho 5, số thành đúng 1 phân, thì cũng lại vẫn còn sai !

Ngay từ đời nhà Chu ( 257 năm trước Tây Lịch) cùng thời với triều đại Thục An Dương Vương nước Việt, con người đã biết dùng Chỉ và Phân theo hệ thống Bát Phân để làm đơn vị đo chiều dài. Một Chỉ dài 0,408 mét, có 8 Phân thì một Phân là 0,051 mét. Về sau từ con số đơn vị của Phân là 0,051 nhân cho 10 theo hệ thống Thập Phân thành con số 0,51. Cái thước dài 0,51m hay 51 cm lâu ngày trờ thành cái thước Lỗ Ban đồng hóa với tà thuật của các Thầy Bùa, Thầy Pháp. Mãi cho đến hơn 2000 năm sau, các nhà Thông Thái Sinh Cơ Lý Học mới giật mình bái phục khi tìm ra được Tần số của ngoại âm là 4,9 từ đó suy ra đơn vị Thời Gian là 1 sec / 4,9 = 0,20408. Biết được đơn vị Thời Gian, các nhà Toán Học tính ra được Gia Tốc Trọng Lực ở mặt địa cầu là 40,8 bằng cách lấy 980 nhân với bình phương của đơn vị thời gian: 0,20408. Con số 0,408 chính là đơn vị Chỉ của nền Văn minh Thái cổ cũng chính là Gia Tốc Trọng Lực ở mặt địa cầu tương đương với 2 lần trị số của đơn vị thời gian. Như vậy, cái thước mà người đời nay cho rằng đó là cái thước Lỗ Ban huyền diệu, mang nhiều sắc thái bùa phép, người đời xưa sử dụng để đo đạt có độ dài là 51 cm, phát xuất từ cơ sở tính toán khoa học của các nhà Khoa Học Thái Cổ.

Mê tín dị đoan hay bác học thì lại tùy vào thái độ và trình độ của người sử dụng. Người mê tín thì cho rằng cái thước chính là chiếc gậy Thần Linh hiễn. là vì ít ra, sau khi đo đạt sửa chửa theo đúng hướng dẫn thì gia chủ có nhiều an tâm, hy vọng nhiều hơn, bớt được căng thẳng, giãm được ưu tư thì có thể né tránh được nhiều tai biến hậu quả có thể chết người. Người bác học thì cho rằng cái thước chỉ là phương tiện để đo đạt chính xác mà thôi. Theo lý thuyết về năng lực bá động thì các loài sinh vật luôn luôn chịu ảnh hưỡng của các làn sóng từ cấp thấp nhất là ngoại âm đến cấp cao nhất là siêu âm đặc biệt là làn sóng ngoại âm phát ra từ lòng đất là nguồn năng lực chi phối đời sống con người qua cơ sở vật chất là nhà cửa của họ. Theo tác giả tập Thái Cổ Khoa Học Toàn Thư – Phần Dương Cơ Lý Học thì nhà cửa luôn luôn được xây dựng trên một nền cứng chắc và đủ rộng để chịu được toàn bộ trọng lượng của cái nhà. Sự liên kết của các nền nhà thành một khối chung sẽ tạo thành một tảng. Hỉnh thức thông thường của tảng là một lớp nền mỏng trải dài trên một vùng đất xốp, mềm, có thể so sánh với một thanh gổ trên mặt nước. Lòng đất luôn luôn phát ra làn sóng ngoại âm là hình thức nhỏ của địa chấn, cho nên tảng phải chịu ảnh hưởng và trở nên một tảng rung động. Trong sự rung động này có sự cộng hưỡng. Sự truyền làn sóng và sự phản hồi làn sóng tạo nên một hệ thống sóng đứng mà hai đầu tảng là hai đầu tự do tạo thành hai bụng của thoi sóng đứng. Ở chính giữa gọi là Nút không rung động giống y như hình ảnh của thanh gổ dài nhấp nhô hai đầu. Ngoại âm của đất có nhiều làn sóng tần số khác nhau và mức độ cộng hưỡng tùy sẽ thuộc vào độ dài, độ dày và độ rắn chắc của tảng, nhưng thường thì độ dài quan trọng hơn. Tảng dài thì có nhiều Nút và nhiều Bụng là vì một tảng dài rung động thì sẽ tạo xen kẻ thành nhiều Bụng và Nút . Mỗi vị trí này được gọi là Tọa Vị. Theo như tác giả tập Thái Cổ Khoa Học Toàn Thư , nếu tọa vị là Bụng thì gọi là Tọa Vị Dương là nơi có sự rung chuyển cao độ. Nếu Tọa Vị là một Nút thì gọi là Tọa Vị Aâm là nơi sự rung động hầu như không có.

Cây thước Lỗ Ban 51 cm được chia thành 8 cung bằng nhau. Mỗi cung lại chia thành 5 cung nhỏ. 8 cũng có thể là con số của Bát Quái và cũng là thứ tự của hàng đơn vị từ 1 đến 8 thuộc hệ thống Bát Phân . 5 cũng có thể là Ngũ hành Kim, Mộc ,Thủy, Hoả , Thổ.

- Cung đầu tiên là Quý Nhơn Cung hành Mộc là cung Tốt .
- Cung thứ 2 là Hiểm Họa Cung hành Thổ là cung Xấu.
- Cung thứ 3 là Thiên Tai Cung hành Thổ là cung Xấu.
- Cung thứ 4 là Thiên Tài Cung hành Thủy là cung Tốt.
- Cung thứ 5 là Nhơn Lộc Cung hành Kim là cung Tốt.
- Cung thứ 6 là Cô Độc Cung hành Hỏa là cung Xấu.
- Cung thứ 7 là Thiên Tặc Cung hành Hỏa ( Kim ? ) là cung Xấu.
- Cung thứ 8 là Tể Tướng Cung hành Thổ là cung Tốt.

Riêng cung Thứ 7 có sách cho rằng hành Hỏa ( Thất Tai Hỏa cục ), nhưng cũng có sách thì cho rằng hành Kim ( Thất Tai Kim cục ). Xem kỷ lại thì cung này cũng là cung cư ngụ của sao Phá Quân.. Trong Tử Vi sao Phá Quân là Bắc Đẩu Tinh hành Thủy là Hung và Hao tinh chủ tán, nhưng trong Bát Biến Du Niên của phép địa lý Dương Trạch thì khẳng định Phá Quân hành Kim là chốn cư của Tuyệt Mạng cũng vốn hành Kim. Khoa Địa Lý cho rằng Sao Phá Quân nguyên là hành Kim mà cái Thước Lỗ Ban chỉ dùng cho Khoa Địa Lý cho nên có thể khẳng định được Thất Tai Kim cục có lý hơn là Thất Tai Hỏa cục. Theo hệ thống Bát Phân từ 1 cho đến 8 là số cuối của hàng đơn vị thì Cung thứ nhất và cung thứ 8 chắc chắn phải là 2 Bụng tức là 2 tọa vị Dương. Hai cung ở giữa là cung thứ 4 và thứ 5 là hai cung Tốt cho nên cung 4 và 5 cũng phải là 2 Bụng tức cũng là 2 tọa vị Dương. Còn lại là Hai Nút sẽ ở tại giữa cung 2 – 3 và giữa cung 6 – 7 vị chi tất cả là 4 Tọa vị Âm. Sự phân chia 1 thành 2, 2 thành 4, 4 thành 8 chắc chắn bắt nguồn từ Lý thuyết Aâm Dương Ngũ Hành mấu chốt của Thái Cực sinh Lưỡng Nghi- Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng – Tứ tượng sinh Bát Quái. . .

Như vậy, cây thước Lỗ Ban là Khoa Học hay Mê Tín, Dị Đoan ?, Pabongka Rinpoche tại trang 169 Trong tập Giải Thoát trong Lòng Tay Kim Cang Xuất Bản năm 1995 có dạy:

Kẻ ngu biết mình ngu, đích thị là hiền trí.
Ngu tự cho mình trí, mới thật là chí ngu.
    

Sunday 16 October 2011

Phú “Tử Vi Biệt Cách”

Phú “Tử Vi Biệt Cách”
               Tác Giả: Đằng Sơn

1.      Tử Vi cách cục tối trọng âm dương
2.      Học giả yếu tường quá hư cùng biến
3.      Nữ tinh phú hiểm úy kỵ đào hoa
4.      Tĩnh tú sát đa toàn vi bất hảo
5.      Chính tinh hãm đáo quyền lộc quang vinh
6.      Miếu vượng kỵ sinh phản vi bất thiện
7.      Chủ hiền khách hiểm quân tử oan khiên
8.      Chủ hiểm khách hiền tiểu nhân đắc chí
9.      Kình Dương Ngọ vị yểu chiết hình thương
10.     Nhược hãm Lộc Quyền danh dương viễn lý
11.     Cơ Lương Quang Quý Hình Lộc danh y
12.     Thế cục chuyển di Lộc Hình Tử Phá
13.     Tử Vi Quyền Phủ diệu sử Kỵ Hình
14.     Tử Phủ Nhật Kình hùng tâm giảo ngữ
15.     Tàng hung Tử Phủ Vũ Tướng không vong
16.     Mão Dậu Kiếp Không Tử Tham thoát tục
17.     Liêm Trinh vô lực ngộ Hổ nguy nan
18.     Liêm Phá Liêm Tham Khúc Xương đại họa
19.     Mệnh lâm hiểm tọa Đà Vũ Xương Linh
20.     Vũ Phủ Kiếp Kình ác nhân quý hiển
21.     Dậu cung bất miễn Thiên Tướng đa đoan
22.     Phản Hũu Hồng Loan sắc Không giác ngộ
23.     Quý tinh Tướng Phủ Tuần Triệt lao đao
24.     Hình Tướng, Phủ Hao đồng vi phá cách
25.     Phát hiềm Xương Khúc, phản hợp Kiếp Không
26.     Hao Phá bần cùng, Lộc quân đại phát
27.     Thanh liêm Hình Sát, hiển đạt Sát Kình
28.     Nạn đáo trùng phùng Sát Dương Ngọ vị
29.     Đào Hoa chính thị Tuần tự Tham Liêm
30.     Đa Sát, bại, dâm phát sinh đại họa
31.     Tham Linh thành tựu, Tham Hổ tai ương
32.     Tham Hỏa anh hùng, Tham Xương nhiễu sự
33.     Âm Dương vạn sự Xương Khúc Kiếp Không
34.     Hỉ ngộ Tam Minh, ố hiềm Tam Ám
35.     Sửu Mùi ảm đạm Nhật Nguyệt vô quang
36.     Gia Kỵ Triệt Tuần phả vi đại cát
37.     Âm Dương hãm đắc kỳ cách vinh xương
38.     Nhật phát văn chương, Nguyệt thăng vũ chức
39.     Nhật Lương Xương Lộc Quyền Lực hạch tâm
40.     Tỵ Hợi tà dâm Đồng Lương Lộc Mã
41.     Cự Môn ám chủ tối hỉ Nhật minh
42.     Cự Ngộ Sát Tinh nhất sinh tọa nạn
43.     Thiên Đồng Dậu hãm cát Hóa vinh quang
44.     Đồng Cự Đinh Tân Võng La đại quý
45.     Dần Thân Riêu Hỉ Cơ Nguyệt lăng loàn
46.     Thìn Tuất Không Vong Cơ Lương tăng đạo
47.     Cự Cơ Mão Dậu bất đáo nhân duyên
48.     Cơ Nhật Đồng Liêm nữ nhân bất túc
49.     Cách tuy họa phúc chủ yếu thiện tâm
50.     Khả dĩ an nhiên đức năng thắng số
---------------------
1. Tử Vi cách cục tối trọng âm dương
     Cách cục trong khoa Tử Vi hầu hết dựa trên lẽ biến dịch của âm dương, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Vì nền tảng của khoa Tử Vi gồm cả âm dương lẫn ngũ hành, khi dụng ngũ hành để luận cách cục của Tử Vi, học giả rất cần nắm vững dịch lý để khỏi bị sai lầm.

2. Học giả yếu tường quá hư cùng biến
     Người học Tử Vi do đó cần am tường lẽ “quá hư cùng biến” của dịch.
     “Quá Hư” là cái tốt quá độ trở thành hư hỏng.
     “Cùng Biến” là đang rất tốt nếu biến xấu thành rất xấu, đang rất xấu nếu biến tốt thành rất tốt. Thường được gọi là lý “cùng tắc biến”, một lý lớn của dịch.

3. Nữ tinh phú, hiểm úy kỵ đào hoa
     Nữ tinh ám chỉ Thái Âm (đế tinh, tượng sự cực âm) và bốn sao ứng với bốn quái hậu thiên âm của dịch là Tham Lang (ứng với quái Tốn), Liêm Trinh (ứng với quái Li), Thiên Đồng (ứng với quái Đoài), Thiên Lương (ứng với quái Khôn). Các sao này hàm chứa tính âm, nên nếu phong phú (tức miếu vượng lại hóa lộc) hoặc trong cảnh nguy hiểm (hãm địa không hóa Khoa Quyền Lộc, hay là hội họp nhiều sát, bại tinh không được không vong hóa giải); thêm các cách đào hoa tất ứng với sự sa đọa hoặc tai nạn.

4. Tĩnh tú sát đa toàn vi bất hảo
     Các sao nhóm tĩnh (Cự Cơ Nguyệt Đồng Lương) hợp với cảnh an bình hơn xung động, gặp nhiều sát tinh chắc chắn không tốt. Chú ý rằng Nhật là ngoại lệ vì là đế tinh dương mạnh mẽ.

5. Chính tinh hãm đáo Quyền Lộc quang vinh
     Chính tinh hãm rất xấu, nhưng nếu hóa Lộc hoặc hóa Quyền lại trở thành tốt hơn cả chính tinh miếu vượng hóa Lộc hóa Quyền.
     Chú ý: Ý nghĩa “hóa Lộc” và “hóa Quyền” khác với có Hóa Lộc, Hóa Quyền cùng cung hoặc hợp chiếu. Thí dụ, năm Giáp Liêm Trinh hóa Lộc. Nếu Tham Lang cùng cung Liêm Trinh (hãm) thì phải phân định như sau: “Liêm Trinh hóa Lộc” và “Tham Lang có hóa Lộc cùng cung”. Ngược lại, năm Mậu Tham Lang hóa Lộc phải phân định là “Tham Lang hóa Lộc” và “Liêm Trinh có hóa Lộc cùng cung”; mặc dù cả hai trường hợp đều được gọi vắn tắt là “Liêm Tham Lộc”.

6. Miếu vượng Kỵ sinh phản vi bất thiện
     Chính tinh miếu vượng rất tốt, nhưng nếu hóa Kỵ lại trở thành xấu xa hơn chính tinh hãm địa hóa Kỵ. Cái xấu này không phải là cái xấu của kẻ không thể thành tựu, mà ví như cái xấu của kẻ trèo cao té nặng. Nếu tu tâm chịu nhịn thua cuộc đời thì có thể tránh được tai họa; chỉ tiếc là kẻ được cách tốt của chính tinh dễ có ai chịu thua cuộc đời!

7. Chủ hiền khách hiểm quân tử oan khiên
     Chính cung đa số là sao hiền (cát tinh), nhưng các cung hợp chiếu, đặc biệt là cung xung chiếu, đa số là sao hiểm (sát và bại tinh) ví như người quân tử bị hàm oan. Dù đắc cách cũng rất mong manh, dễ bị phá hỏng.
     Áp dụng: Sao ở hai cung Mệnh và Thân đa số là cát tinh, nhưng sao ở các cung hợp chiếu –nhất là cung xung chiếu- đa số là sát, bại tinh xấu xa; nghĩa là nền tảng tốt mà hoàn cảnh bất thuận, dễ gặp xui xẻo, tai họa.

8. Chủ hiểm khách hiền tiểu nhân đắc chí
     Chính cung đa số là sao hiểm (sát và bại tinh), nhưng các cung hợp chiếu, đặc biệt là cung xung chiếu, đa số là sao hiền (cát tinh), ví như kẻ tiểu nhân gặp cảnh đắc chí, dù căn bản chẳng ra gì vẫn dễ thành tựu.
     Áp dụng: Sao ở hai cung Mệnh và Thân đa số là sát và bại tinh xấu xa, nhưng sao ở các cung hợp chiếu –nhất là cung xung chiếu- đa số là cát tinh, nghĩa là mình nền tảng xấu mà hoàn cảnh thuận lợi nên dễ thành công, lại hay đóng kịch là người tốt.

9. Kình Dương Ngọ vị yểu chiết hình thương
     Tuổi Bính, Mậu có Kình Dương ở Ngọ. Kình tượng thanh gươm, Ngọ tượng con ngựa nên gọi là cách “mã đầu đới kiếm” (gươm treo đầu ngựa). Ngọ là hãm địa của Kình Dương lại thuộc hỏa khắc tính kim của Kình nên cách này hết sức nguy hiểm. Phú có câu “Mã đầu đới kiếm phi yểu chiết nhi hình thương” nghĩa là có cách “mã đầu đới kiếm” cư mệnh không chết yểu cũng khó thoát cảnh thương tật.
     Nhưng vì lý “cùng tắc biến” lại có ba kỳ cách như tiếp sau đây.

10. Nhược hãm Lộc Quyền danh phương viễn lý
     Theo lý “cùng tắc biến” của dịch, một hoàn cảnh cực xấu biến tốt sẽ trở thành cực tốt.
     Mệnh có Kình Dương cự Ngọ (hãm địa), cùng cung với Đồng Âm (hãm địa), tuổi Bính Thiên Đồng hóa Lộc có Thiên Cơ hóa Quyền tam hợp (đắc Lộc Quyền), tuổi Mậu Thái Âm hóa Quyền có Thiên Cơ Hóa Kỵ tam hợp (đắc Quyền Kỵ) là hai kỳ cách tốt đẹp “mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương”, tạo nên sự nghiệp trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, danh tiếng lẫy lừng.
     Kình Dương cư Ngọ (hãm địa) cùng cung với Tham Lang (hãm địa), tuổi Mậu Tham Lang hóa Lộc, cũng là kỳ cách “mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương”. (Trái lại tuổi Bính mà gặp cách này là hoạn họa trùng trùng vì không được cát hóa).
     Chú ý: Tuổi Bính Thiên Cơ cư Ngọ (hóa Quyền) không hợp cách vì Thiên Cơ không hãm địa ở Ngọ; nên -mặc dù Thiên Cơ khá tốt ở Ngọ- nếu gặp Kình Dương cùng cung thì “phi yểu chiết phi hình thương”, rất cần cẩn thận đề phòng.

11. Cơ Lương Quang Quý Hình Lộc danh y
     Thiên Cơ và Thiên Lương là hai sao tĩnh, gặp Thiên Hình hết sức nguy hiểm, khó tránh khỏi tai họa. Nhưng Ân Quang và Thiên Quý biến được cái ác của Hình thành hành động quyết liệt mà xây dựng. Hình luôn luôn có Riêu tam hợp. Trong cảnh này Riêu tượng trưng thuốc đắng giã tật, thêm Lộc Tồn (bảo thủ, cẩn trọng) hoặc hóa Lộc (thuận lợi, may mắn) trở thành kỳ cách. Cơ Lương (không nhất thiết đồng cung, nhưng phải hội họp với nhau) bản chất vốn đã thích phục vụ, được cách này theo đuổi ngành y dược rất dễ thành tựu lớn. Nếu Cơ hoặc Lương ở Sửu Mùi, có Tả Hữu giáp hai bên lại càng hoàn mỹ (xem thêm cách 12). Chú ý rằng Sửu Mùi là hãm địa của Thiên Cơ, nhưng trong trường hợp này vì thành cách mà vẫn tốt đẹp như thường.
     Các chính tinh khác gặp Hình Riêu Lộc Quang Quý cũng thích hợp ít nhiều với ngành y dược.
     Xác suất càng cao nếu cư Quan Lộc thay vì Mệnh.

12. Thế cục chuyển di Lộc Hình Tử Phá
     Tử Phá Sửu Mùi là cách chính tà tranh thắng, lẽ thường rất cần Tả Hữu phù tá Tử Vi để Tử Vi đắc thế, chế ngự bớt tính phá hoại của Phá Quân. Trái lại gặp đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình thì Hình tất sẽ về cùng phe với Phá Quân, buộc Tử Vi lùi bước. Đây là số người đòi thắng thiên mệnh, gặp cảnh khó khăn dễ thiên về tà hoặc bá đạo hơn là chính đạo. Nhưng nếu có thêm Lộc Tồn (bảo thủ, cẩn trọng) hoặc hóa Lộc (may mắn) lại dễ thành công trong cảnh tranh tối tranh sáng giữa chính và tà. Do đó Phá Quân hóa Lộc hoặc Tử Phá được Lộc Tồn hội họp gặp thêm Thiên Hình là một kỳ cách hết sức tốt đẹp, ví như kẻ anh hùng (hoặc gian hùng, tùy theo cái nhìn của mỗi người) có bản lãnh đổi thay thời cuộc, tạo nên sự nghiệp phi thường trong cảnh trúc chẻ ngói tan.
     Lý tưởng nhất là Tử Phá có Tả Hữu giáp hai bên. Gồm có Tử Phá cư Sửu sinh tháng 9 (Hình tam hợp), tháng 11 (Hình xung chiếu); hoặc Tử Phá cư Mùi sinh tháng 3 (Hình tam hợp), tháng 5 (Hình xung chiếu). Bốn cách này Hình hội họp mà không cư cùng Tử Phá nên giảm sát khí, đỡ lo tai họa.
     Chú ý: Tử Phá không cùng cung không kể!

13. Tử Vi Quyền Phủ diệu sử Kỵ Hình
     Tử Vi ở cung dương luôn luôn tam hợp với Phủ Tướng nên gọi là cách “Tử Phủ Vũ Tướng”, nếu không có Tả hoặc Hữu hội họp là cách “cô quân”, ví như vua không có cận thần, thiếu hẳn hiệu quả. Trong hoàn cảnh này lại gặp đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình lại càng bất lợi (mặc dù không nguy hiểm, đây Hình ví như kẻ phù tá hung dữ lộng quyền, khiến chủ Tử Vi mang tai tiếng bất nhân).
     Nhưng nếu Tử Phủ Vũ Tướng có hóa Quyền hội họp thì uy lực mạnh mẽ, khắc phục biến Hình thành phù tá đắc lực, là một kỳ cách, dễ thành tựu trong cảnh đấu tranh nguy hiểm. Lưu Huyền Đức, vua nước Thục đời Tam Quốc có cách này (“Lưu Huyền Đức đạt thừa Hán nghiệp thi ư Tử Phủ Vũ Tướng Khoa Quyền Hình Ấn Hồng Khôi mệnh thân”).
     Cũng cách Tử Phủ Vũ Tướng, gặp cả Hình lẫn Kỵ rất khó thành công. Nhưng nếu có Quyền ở chính cung, hoặc Quyền Kỵ hội chiếu (nghĩa là Kỵ không ở chính cung) thì vẫn dễ thành công hiển hách, nhưng phải bận tâm tính toán nhiều hơn cách không có hóa Kỵ; nên cũng dễ trở thành kẻ gian hùng.

14. Tử Phủ Nhật Kình hùng tâm giảo ngữ
     Tử, Phủ, Nhật (Thái Dương) là ba đế tinh mạnh mẽ, có bản lãnh biến Kình Dương (cùng cung) thành của mình, cư mệnh là kẻ có hùng tâm và chịu tính toán. Nếu mệnh cư ở Thìn Tuất Sửu Mùi thì đắc cách “Kình Dương nhập miếu” nên bản lãnh cao lại thêm liều lĩnh; Tử, Phủ cùng cung theo đuổi kinh doanh dễ có cơ thành tựu lớn; do đó có cách “Tử Phủ Kình Dương tại cự thương”.
     Chú ý 1: Một trong ba đế tinh Tử, Phủ, Nhật cùng cung với Kình thì kiêu ngạo, cảm thấy rất khó chịu khi thua người. Nếu đế tinh ở vị trí tương đối yếu tất sẵn sàng dối trá để bảo vệ vị trí của mình. Các vị trí tương đối yếu gồm có: Tử Vi cư Tý Mão Dậu Thìn Tuất, Phủ cư âm cung, Thái Dương cư Tuất Tý Sửu Mùi (Thái Dương rất yếu ở Hợi nhưng không thể gặp Kình ở đây nên không kể).
     Chú ý 2: Thái Âm cũng là đế tinh, nhưng yếu hơn Tử Phủ Nhật, không vận dụng nổi Kình Dương nên chỉ có cách này khi đồng cư với Thái Dương ở Sửu Mùi.
     Chú ý 3: Thay vì Kình mà là Đà lý tính vẫn tương tự, nhưng giảm phần liều lĩnh mà tăng phần tính toán; khó thoát khỏi tâm lý “cứu cánh biện minh cho phương tiện”.

15. Tàng hung Tử Phủ Vũ Tướng không vong
     Tử Phủ Vũ Tướng (chỉ xảy ra ở cung dương) ứng với cộng hưởng giữa hai nhóm Tử Liêm Vũ và Phủ Tướng nên rất tốt đẹp, nhưng nếu gặp không vong (tức Tuần, Triệt, hoặc Thiên Không, Địa Không đúng vị đóng cùng cung) thì ví như tòa lâu đài xây trên bãi cát, dù có các cách tốt khác hội họp đi nữa cũng gặp nhiều hung hiểm; sự nghiệp dù huy hoàng cũng khó lâu bền.
     Tuần Triệt đúng vị không vong khi ở cung cùng lý với năm sinh nên cách Tuần Triệt chỉ ứng với người sinh năm dương. Sinh năm âm ảnh hưởng không đáng kể.
     Thiên Không đúng vị không vong ở Dần Thân Tỵ Hợi, nên cách Thiên Không chỉ ứng với hai cung Dần Thân.
     Địa Không Địa Kiếp đúng vị không vong ở Thìn Tuất Sửu Mùi Tí Mão nên cách Địa Không, Địa Kiếp chỉ ứng với ba cung Thìn Tuất Tý.
     CHÚ Ý: Cách này vẫn có thể thành công to tát, nhưng nếu thế thì phải trả giá cao. Không thành công lại dễ bình ổn hơn. Đây là lẽ bù trừ của thuyết âm dương.

16. Mão Dậu Kiếp Không Tử Tham thoát tục
     Ngược lại với cách 15, khi Tử Vi hội họp với Sát Phá Tham thay vì Phủ Tướng thì thành cách Sát Phá Liêm Tham, là cảnh chính tà tranh thắng. Vị trí kém nhất của Tử Vi trong hoàn cảnh này là cư Mão Dậu cùng với sao “chính đào hoa” Tham Lang, ứng với sự sa đọa, dâm đãng; vì vậy sách có câu “Đào Hoa phạm chủ vi chí dâm”. Nhưng nếu Tử Tham cư Mão gặp Địa Kiếp hoặc Địa Không cùng cung lại là vô vi thoát tục; tu hành ắt có thành tựu. Cư Dậu xác xuất thành tựu thấp hơn. Không hoặc Kiêáp chỉ hội họp thay vì cùng cung xác xuất thành tựu cũng thấp hơn.
     Chú ý: Nếu mệnh cung nguyên thủy có Tử Tham gặp Tuần Triệt án ngữ hoặc cùng cung Thiên Không không thể nhất luật bàn như trên mà phải xét xem các cường cung (tức mệnh tài quan, quan di thê) có Địa Không, Địa Kiếp hoặc cả hai sao hội họp hay không. Nếu thay vì Không Kiếp mà lại là Xương Khúc hội họp thì tâm muốn tu hành giải thoát nhưng vẫn khó thoát nợ trần.    

17. Liêm Trinh vô lực ngộ Hổ nguy nan
     Liêm Trinh ứng với quái Li rực rỡ quá độ ví như cô tiểu thư nhà giàu; tốt thì chủ công danh, xấu dễ gặp tai họa. Liêm Trinh cùng cung với Phá Quân hoặc Tham Lang thì lạc hãm nên vô lực. Bạch Hổ (thuộc vòng Thái Tuế) tượng kẻ nhất định dùng quyền lực để bảo vệ quyền lợi của mình. Vô lực mà đòi dùng lực tất gặp nguy hiểm, tai ương; nên Liêm Trinh lạc hãm cùng cung Bạch Hổ khó tránh tai họa.
     Liêm Trinh độc thủ Dần Thân được hội họp với Phủ Tướng nhưng lại bị Tham Lang (hãm) xung chiếu, đồng cung Bạch Hổ cũng nguy hiểm nhưng đỡ hơn Liêm Phá, Liêm Tham. Có sao tốt giải cứu thì không đáng lo ngại.
     Chú ý: Bạch Hổ có Thanh Long (thuộc vòng Lộc Tồn) cùng cung thì thành cách “Thanh Long Bạch Hổ” hoặc “Long Hổ tương phùng”. Trong trường hợp này Bạch Hổ không còn tác họa nữa, mà hợp tác với Thanh Long để tăng xác xuất thành công.

18. Liêm Phá Liêm Tham Khúc Xương đại họa
     Liêm Trinh ứng với quái Li, ví như cô tiểu thư đài các, có Khúc Xương càng thêm vẻ kiêu sa. Nhưng Xương Khúc, mặc dù là cận thần của Tử Phủ Âm Dương, bản chất vốn yếu đuối. Liêm Trinh cùng cung Phá Quân hoặc Tham Lang là lạc hãm, ví như cảnh thân gái dặm trường, vẻ đài các kiêu sa của Xương Khúc càng khiến kẻ bất lương nhòm ngó, biến thành tai họa. Phú có câu “Liêm Trinh phùng Văn Quế cánh bôn ba” (Liêm Trinh phùng Văn Khúc càng bôn ba) có lẽ ám chỉ trường hợp này.
     Chú ý: Liêm Trinh là sao đào hoa lại chủ quan lộc, hình ngục nên sao phù tá tốt đẹp nhất là Lộc Tồn (may mắn, bảo thủ, cẩn trọng). Có Lộc Tồn cùng cung thì dễ thành đạt và đỡ lo tai họa, nhất là tai họa do Xương Khúc và các sao đào hoa gây ra; hội họp tương tự nhưng không tốt bằng. Ngược lại Liêm Trinh gặp những phản đề của Lộc Tồn như sau đây thì rất đáng lo ngại:
     Thiên Phúc cùng cung dễ xui xẻo
     Kình hoặc Đà cùng cung dễ gặp tai họa
     Đại hoặc Tiểu Hao cùng cung thiếu chí hướng, khó thành tựu

19. Mệnh lâm hiểm tọa Đà Vũ Xương Linh
     Đây là một trường hợp mà lý ngũ hành hoàn toàn phù hợp với lý âm dương, và dễ áp dụng hơn.
     Vũ Khúc ở cung dương hoặc cùng Tham Lang ở Sửu Mùi hội họp Văn Xương tương đối tốt đẹp, nhưng vì hai sao cùng thuộc kim có tính sát nên hàm chứa nguy hiểm. Đà Linh là hai sao sát có tính âm hàn (Đà là sao âm của cặp Kình Đà, Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh). Đà thuộc kim, Linh thuộc hỏa nhưng đới thêm tính kim. Cái đẹp mong manh gặp tính sát âm hàn đã kém đi nhiều; cả bốn sao lại đều mang tính sát của kim nên hội họp trở thành cực xấu, ứng với nguy hiểm hoặc khó khăn to lớn.
     Vũ Phá Tỵ Hợi, Vũ Sát Mão Dậu vốn đã không hợp với Xương Khúc nên càng xấu hơn nữa.
     Theo lý ngũ hành, kim quá dư tất phải sinh thủy để lấy lại quân bình. Thủy ứng với nước nên phú để lại có câu “Linh Xương Đà Vũ hạn đáo đầu hà” nghĩa là đến hạn Linh Xương Đà Vũ tất gieo mình xuống sông tự tử, ý nói là gặp quá nhiều khó khăn bế tắc, chỉ còn cách chết cho rảnh nợ. Sự thật gặp hạn Linh Xương Đà Vũ không nhất thiết tự tử, nhưng chắc chắn có sự bất xứng ý. Linh Xương Đà Vũ ở phúc đức cũng luận tương tự.
     Chú ý: Vũ Khúc bản chất lạnh lẽo, bất cận nhân tình.

20. Vũ Phủ Kiếp Kình ác nhân quý hiển
     Vũ Phủ Tí Ngọ là một cộng hưởng vô cùng tốt đẹp vì cả hai sao đều là tài tinh; Phủ lại là đế tinh nên uy lực mạnh mẽ. Kiếp Kình là hai sát tinh ác độc, Phủ bản chất dung hòa nên thu dụng làm tay chân của mình, trở thành cách gian tham nhưng quý hiển.
     Có cách này cư mệnh, độc ác thì khá giả, hợp cách gian thương tạo ra tài sản trên máu mủ thiên hạ. Ngược lại quyết giữ thiện tâm thì như chủ tốt gặp đầy tớ bất lương, tất phải chịu một số oan nghiệp rồi mới tốt đẹp được.
     Vũ không được đồng cung với Phủ thì uy lực kém hơn. Cũng cách Kiếp Kình, thêm nhiều sao tốt hội họp cũng ác độc hoặc tàn nhẫn, nhưng tương đối khó thành tựu; thêm nhiều sao xấu hội họp tất vì tiền bạc mà mang họa vào thân. Cư mệnh nên đi tu là hơn cả.

21. Dậu cung bất miễn Thiên Tướng đa đoan

Thiên Tướng là quý tinh nên cư mệnh không phải lo cơm áo, nhưng bản chất nhu nhược nên không vượt nổi tính "bại" của cung Dậu . Tướng kém cỏi nhất ở Dậu (kém hơn Mão vì hai đế tinh Âm Dương cư ở Tử Tức và Huynh Đệ đều hãm địa) , lại bị Liêm Tham Phá hãm địa ở Mão xung chiếu, nên gặp rất nhiều phiền toái rắc rối . Mệnh cung của nhiều cô gái giang hồ nhan sắc được khách làng chơi chu cấp như vợ bé có cách này .

22. Phản Hũu Hồng Loan sắc Không giác ngộ

Cũng là Thiên Tướng cư Dậu , tuổi Ngọ có Hồng Loan cùng cung nên thanh sạch, Đào Hỉ ở Mão xung chiếu, thành thử đắc cách tam minh Đào Hồng Hỉ, ví như kẻ lạc giữa bụi trần nhơ nhuốc mà tâm tư sáng suốt, bình lặng như không, ngộ ra mọi sắc hương đều là giả dối .

Thiên Tướng cùng cung Hồng Loan tại Mão luận tương tự nhưng xác suất thấp hơn .

Luật chung về Thiên Tướng cho tất cả mọi cung : Thiên Tướng ứng với hình thức bề ngoài, nếu hội họp với cả hai loại sao sắc (Đào Hồng Hỉ) và Không (Tuần Triệt Thiên Không Địa Không ) lại biến thành cảnh sắc sắc không không, thường có duyên với cảnh tu hành ) .

23. Quý tinh Tướng Phủ Tuần Triệt lao đao

Phủ Tướng là hai quý tinh có tính dung hòa nên nói chung khi độc thủ không ngại tứ sát Kình Đà Hỏa Linh lắm . Cư mệnh vẫn dễ phú quý, chỉ tăng thêm tính gian xảo . Thế nhưng là thế "có" nên gặp Tuần Triệt coi như mất hết . Cách tốt bao nhiêu cũng thành vô dụng . Gặp Thiên Không , Địa Không đúng vị không vong cũng luận như trên .

Chú ý : Cách này ứng với khi Phủ Tướng ở cung âm . Ở cung dương là cách 15 đã kể trên .

24. Hình Tướng, Phủ Hao đồng vi phá cách

Thiên Tướng là sao yếu đuối nên có Tả Hữu phù tá thì rất tốt đẹp, ngược lại gặp đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình cùng cung thì hết sức nguy hiểm . Thiên Hình là sát tinh nên Thiên Tướng khó thoát khỏi tai họa . Thiên Phủ cũng cần Tả Hữu và kỵ Thiên Hình, nhưng vì là đế tinh có uy lực mạnh nên gặp Thiên Hình không đáng lo ngại . Nhưng Phủ là tài tinh, cùng cung Đại Tiểu Hao là phá cách, ứng với sự túng thiếu . Đại Tiểu Hao đắc địa đi nữa cũng chỉ có những thoáng huy hoàng mà thôi .

25. Phát hiềm Xương Khúc, phản hợp Kiếp Không

Phá Quân bản chất phá hoại, Xương Khúc lại nho nhã dung hòa, nên Phá Quân có Xương Khúc phò tá không thể làm ra chuyện (trừ trường hợp có thêm sao của cả hai nhóm Tả Hữu, Khôi Việt hội họp). Phú có câu "Phá Quân Xương Khúc vi bần nho" . Ngược lại Phá gặp Kiếp Không là hai sao chuyên phá hoại thì đúng là chủ gặp tớ, dễ thành đại sự .

26. Hao Phá bần cùng, Lộc quân đại phát

Đại Tiểu Hao là hai sao thiếu chí hướng, khiến Phá Quân không thể chuyên nhất phát huy ưu điểm xung phá của mình . Đại Tiểu Hao bản chất lại là phí phạm, hư hao; dễ đẩy Phá Quân vào cảnh bần cùng . Ngược lại Phá Quân gặp Lộc Tồn (cẩn trọng nhưng khá giả) hoặc hóa Lộc (thuận lợi , may mắn ) tất đại phát .

Chú ý : Lộc và Không Kiếp cùng phù hợp Phá Quân nên gặp Phá Quân thay vì phá hoại nhau lại cùng giúp Phá Quân trở thành tốt đẹp .

27. Thanh liêm Hình Sát, hiển đạt Sát Kình

Thất Sát có Tả Hữu phù tá thì tốt đẹp. Nhưng mang tính sát nên đồng thời phù hợp với đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình; do đó gặp Thiên Hình không bất lợi , chỉ thể hiện một chiều hướng khác . Thất Sát miếu vượng thì thanh liêm, nghiêm khắc, hãm thì tàn nhẫn .

Sao Sát phù hợp nhất với tính dũng cảm của Thất Sát là Kình Dương, tức sao dương của cặp Kình Đà, Thất Sát gặp Kình Dương như chủ can đảm gặp tớ liều lĩnh, chỉ cần một trong hai sao đắc vị là có thể thành công to lớn . Nhưng đây là một kết hợp đầy sát khí nên rất nguy hiểm, bạo phát thường đi liền với bạo tàn, nhất là một trong hai sao hãm địa thì rất khó lòng thoát khỏi tai họa . (Hai sao cùng hãm thành cảnh "kẻ dùng gươm chết vì gươm", chính là đại họa) .

Thất Sát gặp Đà La ý nghĩa tương tự Kình Dương , nhưng mức thành đạt và xác suất thành đạt thấp hơn, vì Đà La là sao âm phát triển không nhanh bằng Kình Dương là sao dương .

28. Nạn đáo trùng phùng Sát Dương Ngọ vị

Kình Dương cư Ngọ là cách "Mã đầu đới kiếm". Ngọ thuộc Hỏa, Kình thuộc Kim, Hỏa khắc Kim nên đây là vị hãm địa xấu nhất của Kình Dương . Thất Sát ở Ngọ miếu địa cùng cung với Kình tất có thành tựu, nhưng khó lòng tránh khỏi tai họa khủng khiếp; hợp với số kẻ làm tướng chết oanh liệt ở trận tiền .

Phá Quân cư Ngọ (miếu địa) đồng cung Kình Dương cũng luận tương tự .

29. Đào Hoa chính thị Tuần tự Tham Liêm

Tham Lang ứng với quái Tốn, tượng là con gái trưởng, nhu nhược thành thử dễ bị cuốn hút vào chuyện trăng hoa, nên gọi là "chính đào hoa". Liêm Trinh ứng với quái Li, tượng là con gái thứ , xinh đẹp kiêu sa . Nhan sắc là lợi điểm mà cũng có thể là tai họa, nên gọi là "thứ đào hoa" .

30. Đa Sát, bại, dâm phát sinh đại họa

Sát tinh hoặc phá hoại hoặc cuốn hút người ta vào đường phá hoại . Bại tinh gây ra bất hạnh . Dâm tinh, tức các cách đào hoa thiếu đứng đắn, gây sự sa ngã . Tham Liêm bản chất đã mang sẵn tính đào hoa gặp nhiều sao của các nhóm này tụ tập rất nguy hiểm, cần đề phòng tai họa hoặc trụy lạc .

31. Tham Linh thành tựu, Tham Hổ tai ương

Hổ là một bại tinh bản tính quyết liệt, nên Tham Lang hãm địa thiếu uy lực gặp Hổ cùng cung khó lòng tránh khỏi tai nạn, miếu vượng cũng phiền toái . Lý tương tự như trường hợp Liêm Trinh .

Chú ý : Có Thanh Long hội họp thì thành cách "Thanh Long Bạch Hổ " . Trong trường hợp này Bạch Hổ không còn tác họa nữa mà biến thành một yếu tố thành công .

Tham Lang là một trong bộ ba Sát Phá Tham tất phải có sát tinh phù hợp . Lục sát có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp . Ta đã biết Phá Quân hợp Không Kiếp, Thất Sát hợp Kình Đà; suy ra Tham Lang hợp Hỏa Linh .

Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh, ví như ngọn lửa âm thầm, giúp Tham Lang thuộc mộc được nung nóng, thành tựu nhưng không phải là đột phát .

32. Tham Hỏa anh hùng, Tham Xương nhiễu sự

Hỏa Tinh thuộc dương, ví như ngọn lửa lớn khiến Tham Lang thuộc mộc cháy bùng, nên Tham Hỏa là cách anh hùng, ứng với sự thành công đột phát .

Xương là sao dương của cặp Xương Khúc, mang tính đào hoa nhưng đồng thời thuộc kim khắc hành mộc của Tham . Tham Lang mang tính đào hoa gặp Xương ví như cảnh "bỏ thì thương vương thì tội" chẳng ra gì, mập mờ rất phiền toái . Tham Xương cư Mệnh do đó là kẻ hay gây rắc rối cho đời . Tệ nhất là có đủ bộ Xương Khúc hội họp; phú có câu "Tham Lang Xương Khúc chính sự phiền hà" .

Chú ý : Nếu có nhiều cát tinh như Tả Hữu Khôi Việt Lộc Tồn tam Hóa , hoặc sao phù tá đúng bộ là Linh Hỏa thì giải được, không kể là xấu nữa .

33. Âm Dương vạn sự Xương Khúc Kiếp Không

Muốn luận tốt xấu cho cặp đế tinh Âm Dương cần nhất là xét bốn sao Xương Khúc và Không Kiếp . Âm Dương hội họp với Xương Khúc là đắc cách dễ phát triển tiềm năng , với Không Kiếp là phá cách, nhẹ sinh ra cảnh đầu voi đuôi chuột, nặng thì nhiều tai họa .

34. Hỉ ngộ Tam Minh, ố hiềm Tam Ám

Âm Dương tượng trưng ánh sáng của mặt trăng mặt trời nên gặp bộ tam minh Đào Hồng Hỉ (tượng vẻ tươi sáng của một cô gái xuân thì) rất đẹp đẽ . Trái lại gặp bộ tam ám Riêu Đà Kỵ (tượng ba hoàn cảnh u ám) thì giảm uy lực . Ngoại lệ là kỳ cách Âm Dương Sửu Mùi tiếp theo đây .

35. Sửu Mùi ảm đạm Nhật Nguyệt vô quang

Sửu Mùi Nhật Nguyệt cùng cung ví như mặt trời mặt trăng cùng dành ánh sáng, là cảnh âm dương hỗn độn, tranh tối tranh sáng, nói chung là phá cách . Vì Âm Dương cùng là đế tinh, cư mệnh thích làm đàn anh thiên hạ nhưng lại không chịu hoặc không biết lo lắng cho thuộc hạ, gây ra những cảnh đầu voi đuôi chuột .

36. Gia Kỵ Triệt Tuần phả vi đại cát

Cũng Nhật Nguyệt Sửu Mùi nhưng có Tuần hoặc Triệt án ngữ thì cảnh hỗn độn bị phá hủy, khiến Nhật Nguyệt cùng có cơ hội phát huy tiềm năng to lớn của mình, là một kỳ cách tốt đẹp . Địa Không cư ở đây cũng tương tự .

Sửu Mùi là đắc địa của Hóa Kỵ, lại gặp không vong thì chỉ còn sót lại tính cẩn trọng, rất cần thiết để hai đế tinh có thể cộng tác với nhau . Thế nên Âm Dương Sửu Mùi gặp không vong đã tốt, thêm Hóa Kỵ trở thành hoàn mỹ .

Là một kỳ cách rất đáng ghi nhớ vì Nhật Nguyệt lẽ thường rất hiềm Hóa Kỵ và không vong .

37. Âm Dương hãm đắc kỳ cách vinh xương

Thái Âm cực xấu ở Thìn Ngọ (khí dương thịnh lại là cung dương), Thái Dương cực xấu ở Hợi (khí âm thịnh lại là cung âm), nhưng là đế tinh nên có tiềm năng mạnh mẽ . Do đó nếu đắc kỳ cách lại thành tựu hết sức to lớn .

38. Nhật phát văn chương, Nguyệt thăng vũ chức

Thái Dương vốn thuộc dương khi lạc hãm đắc kỳ cách theo luật "cùng tắc biến" lại nhuốm tính âm nên dễ phát về văn chương . Cùng lý Thái Âm vốn thuộc âm, lạc hãm đắc kỳ cách lại nhuốm tính dương nên dễ phát về võ nghiệp .

Kỳ cách quan trọng nhất là Âm Dương hóa Lộc hoặc hóa Quyền, thêm Xương Khúc phù tá . (Tưởng Giới Thạch tung hoành ở lục địa Trung Hoa, bị thua chạy ra Đài Loan rồi biến Đài Loan thành một cường quốc có cách Thái Âm hãm địa cư Thìn hóa Lộc, được thêm Khoa Quyền chiếu, lại có Khúc Xương phù tá) .

39. Nhật Lương Xương Lộc Quyền Lực hạch tâm

Thiên Lương thuộc quái Khôn (âm) lại vĩnh viễn tam hợp với Thái Âm (âm) , được hội họp với Thái Dương (dương) thành cảnh âm dương quân bình nên rất đẹp đẽ . Nhật vượng ở Mão thành cách Nhật Lương cùng cung, được Nguyệt miếu ở Hợi tam hợp, nếu hội họp có thêm sao phù tá lý tưởng của Thái Dương là Văn Xương và sao đại biểu may mắn là hóa Lộc hoặc Lộc Tồn là lý tưởng . Nhật Nguyệt là hai đế tinh , thêm Lương là bầy tôi lương đống, cung mệnh được cách này dễ trở thành nhân vật có quyền lực . Nhật ở Dậu hãm địa nên thành tựu kém hơn nhưng vẫn là cách tốt đẹp . Đặc biệt nếu Nhật hoặc Lương hóa Lộc hoặc hóa Quyền thì theo lý "cùng tắc biến" lại thành kỳ cách, tốt hơn cả Nhật Lương cư Mão .

Lương cư Tý Ngọ cũng đắc cả hai sao Nhật Nguyệt, nhưng không được tọa cùng đế vị nên kém hơn Nhật Lương Mão Dậu, ứng với quyền lực ở vị trí thấp hơn, cư mệnh đắc phụ tinh tốt đẹp có thể là nhân sĩ địa phương hoặc làm thầy giáo (số vạn thế sư biểu Khổng Phu Tử có Thiên Lương cư Tý) .

40. Tỵ Hợi tà dâm Đồng Lương Lộc Mã

Lương gốc là quái Khôn tượng mẹ, Đồng gốc quái Đoài tượng con gái út . Đồng Lương ở Tỵ Hợi thì Âm Dương cùng cung ở Sửu Mùi là cảnh Nhật Nguyệt tranh huy u ám . Thiên Lương mất ánh sáng của Nguyệt, lại không được Nhật soi sáng trở thành u tối , như người mẹ quên mất thiên chức của mình . Tỵ Hợi lại thuộc tứ mã tượng biến động nên Thiên Lương ở đây hãm địa, ứng với sự buông thả, phóng túng . Đồng như cô con gái ham chơi được mẹ thả lỏng, nên là cách "vượng địa" bay nhảy tự do không còn gì kềm hãm nữa .

Hóa Lộc và Thiên Mã (Lộc Mã, nhưng xem chú ý 1) là một cách rất tốt, biểu tượng thay đổi may mắn, nhưng chính vì vậy khuynh hướng phóng túng của Thiên Lương càng có cơ hội bộc phát . Thiên Đồng non dại thiếu sự dạy bảo của người trên thấy đổi thay may mắn thế nào chẳng ham vui nhảy vào , thiếu kinh nghiệm tất bị sa ngã . Bởi vậy Đồng Lương Tỵ Hợi gặp Lộc Mã thay vì tốt đẹp lại tà dâm , bất chính .

Nếu không gặp Lộc Mã nhưng có các cách đào hoa hội họp cũng luận như trên .

Chú ý 1: Lộc Tồn và Thiên Mã (cũng gọi là Lộc Mã) không thể luận như Hóa Lộc và Thiên Mã vì Lộc Tồn có tính bảo thủ, giảm tính vọng động của Đồng Lương Tỵ Hợi .

Chú ý 2: Tham Liêm Tỵ Hợi gặp hóa Lộc Thiên Mã tương tự, nhưng lý hiển nhiên hơn vì là hai sao chính phụ đào hoa .

41. Cự Môn ám chủ tối hỉ Nhật minh

Cự Môn là đầu đảng của các sao ám, tượng sự bất mãn thị phi nên rất cần Thái Dương soi sáng , do đó Cự Nhật đồng cung là một cách tốt đẹp . Nhưng cần chú ý ở Dần Nhật vượng nên tốt đẹp hơn ở Thân . Cung Mệnh cư ở Thân có Cự Nhật là hạng người đầu voi đuôi chuột, thích đảm đương trọng trách nhưng hay bỏ việc giữa đường .

Ngoài ra Cự Môn cũng tốt hơn nếu gặp bộ tam minh Đào Hồng Hỉ . Ngược lại nếu cùng cung với một trong ba sao thuộc bộ tam ám Riêu Đà Kỵ hoặc hội họp với hai hoặc cả ba sao này thì rất phiền toái, đa đoan; dù đắc cách Cự Nhật cũng thế .

42. Cự Ngộ Sát Tinh nhất sinh tọa nạn

Trong các sao tĩnh thì Cự Môn - vì bản chất đã hàm tính xấu - sợ lục sát tinh hơn cả, gặp một trong lục sát cùng cung là phá cách . Nếu cư mệnh :

Cùng Kình hoặc Đà : Lắm thị phi .
Cùng Hỏa hoặc Linh : Lắm tai nạn
Cùng Không hoặc Kiếp : Thành ít bại nhiều .

43. Thiên Đồng Dậu Hãm cát Hóa vinh quang

Thiên Đồng cực hãm ở Dậu (vì cung xung chiếu có Thái Âm hãm địa), nên theo lý cùng tắc biến nếu cát hóa lại biến thành kỳ cách, có thể tạo nên sự nghiệp huy hoàng .

Tuổi Bính Thiên Đồng ở Dậu (hãm) hoá Lộc, được Thiên Cơ ở Sửu (hãm) hoá Quyền tam hợp, thêm Thiên Việt cùng cung , Lộc Tồn ở Tỵ hội họp . Hết sức tốt đẹp .

Tuổi Đinh Thiên Đồng ở Dậu (hãm) hoá Quyền, được Thái Âm ở Mão (hãm) hoá Lộc xung chiếu, Thiên Cơ hóa Khoa ở Sửu (hãm) và Cự môn hóa Kỵ ở Tỵ (hãm) chiếu về, thêm Thiên Việt cùng cung . Chính cung hóa Quyền nên đắc cách Quyền Kỵ và gồm thâu cả tứ hóa . Tốt đẹp e còn hơn cả tuổi Bình .

44. Đồng Cự Đinh Tân Võng La đại quý

Thìn là vị Thiên La, Tuất là vị địa võng . Cự ở Thìn xung Đồng ở Tuất đều là lạc hãm rất xấu, nhưng chính vì thế mà hoá cát lại thành cực tốt .

Tuổi Đinh Thiên Đồng cư Tuất hóa Quyền, Cự Môn hóa Kỵ thành cách Quyền Kỵ, có khả năng tạo dựng sự nghiệp trong cảnh khó khăn . Ngoài ra lại có Thái Âm hóa Lộc ở Dần (hãm) , Lộc Tồn ở Ngọ chiếu về, ứng với tài lộc, may mắn . Thiên Đồng cư Thìn cũng rất tốt, nhưng không bằng Tuất vì thiếu Lộc Tồn tam hợp, và Thái Âm ở Thân (vượng) hóa Lộc không tốt bằng ở Dần (hãm) .

Tuổi Tân Cự Môn cư Thìn (hãm) hóa Lộc, có Thái Dương ở Tý (hãm) hoá Quyền nên là kỳ cách tốt đẹp . Cự Môn cư Tuất cũng tốt đẹp, nhưng kém hơn ở Thìn vì Thái Dương ở Ngọ (miếu) hóa Quyền không bằng Thái Dương ở Tý (hãm) .

Chú ý 1 : Tuổi Bính Thiên Đồng hóa Lộc , Thiên Cơ hóa Quyền nên Thiên Đồng ở Thìn Tuất cũng tốt nhưng không bằng tuổi Đinh vì hai lẽ : Thứ nhất Thiên Cơ uy lực kém hơn Thái Âm , thứ hai bị Lộc Tồn ở vị nghịch lẽ âm dương .

Chú ý 2 : Tuổi Quý Cự Môn ở Thìn (hãm) hóa Quyền được thêm Lộc Tồn ở Tý chiếu về nên cũng tốt đẹp, nhưng vẫn không bằng tuổi Tân có Thái Dương hãm cát hóa . Cự Môn ở Tuất thì kém hẳn .

45. Dần Thân Riêu Hỉ Cơ Nguyệt lăng loàn

Nguyệt cực âm nên dù là đế tinh vẫn yếu đuối, Cơ bề ngoài bảo thủ nhưng trong tâm tư biến đổi liền liền, Dần Thân lại là mã địa tượng xung động . Hai sao đồng cung ở đây không vững vàng, lại gặp Riêu (quyến rũ) Hỉ (vui tươi) thành cách đào hoa thì sao khỏi sa ngã . Nên đây là cách dâm đãng . Gặp các cách đào hoa khác cũng luận tương tự .

Nhưng chú ý : Nếu Cơ Nguyệt Dần Thân có thêm Không vong trấn giữ (Tuần Triệt hoặc Thiên Không cùng cung) thì ứng với luật "cùng tắc biến" của dịch, sắc lại biến thành không; nên càng có nhiều cách đào hoa càng có khuynh hướng tìm giải thoát trong cảnh tu hành .

46. Thìn Tuất Không Vong Cơ Lương tăng đạo

Cơ Lương Thìn Tuất là miếu vượng rất tốt đẹp; cư mệnh là cách của bậc quân sư tài giỏi , gặp sát tinh cùng cung xâm phạm phải xuống cấp vẫn còn là hạng "nhất nghệ tinh nhất thân vinh". Nhưng Cơ Lương là hai sao nhu nhược, nên bị một trong các sao không vong cùng cung trấn áp (gồm có Tuần Triệt, Địa Không ở vị trí này ) tất chẳng còn gì cả, như người có của báu một lúc trắng tay, lại thiếu bản lãnh quật cường nên sinh thất chí, cư mệnh là cách của người chán đời đi tu .

47. Cự Cơ Mão Dậu bất đáo nhân duyên

Cự Cơ Mão Dậu là một kỳ cách của Tử Vi, nếu gặp Tuần Triệt hoặc Đại Tiểu Hao để thành tựu lớn . Nhưng đây là kỳ cách do nhiều yếu tố xấu phá hoại nhau mà thành nên theo luật bù trừ được cái này mất cái kia .

Cự Cơ Mão Dậu cư Mệnh thì Phu thê ắt là Âm Dương Sửu Mùi như mặt trăng mặt trời tranh dành ánh sáng, là cảnh âm dương bất thuận; do đó là số tình duyên ngang trái .

48. Cơ Nhật Đồng Liêm nữ nhân bất túc

Phái nữ mệnh có Thiên Cơ tất cung phu có Thái Dương là sao chính ứng với chồng . Thái Dương hãm hoặc đồng cung Thái Âm là cảnh vợ chồng bất thuận, Thái Dương cư Dần vượng đồng cung với Cự Môn cũng là mâu thuẫn, chỉ còn lại Thái Dương ở các cung Mão Thìn Tỵ Ngọ (ứng với mệnh Thiên Cơ tại Tỵ Ngọ Mùi Thân). Nhưng Cơ ở Thân tất đồng cung với Thái Âm bản chất dễ có sự thiếu đứng đắn, Cơ ở Mùi là hãm địa; nên Thiên Cơ cư mệnh chỉ có Tỵ Ngọ là tương đối tốt đẹp cho phái nữ, ngoài ra khó tránh cảnh nhân duyên dang dở .

Phú có câu "nữ mệnh đoan chính Thái Dương tinh, tảo ngộ hiền phu tín khả bằng", nghĩa là nữ mệnh có Thái Dương là người đoan chính, sớm gặp chồng hiền . Xét trên dịch lý e rằng câu phú này không đúng; bởi Thái Dương là sao cực dương cư mệnh phái nữ không hợp .

Thái Dương càng miếu vượng tính mâu thuẫn càng cao nên nữ mệnh có Thái Dương cư các cung Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ dễ thành công trên đường sự nghiệp nhưng khó thuận nhân duyên . Sửu Mùi Âm Dương đồng cung khó tránh đôi lần dang dở, các cung còn lại vì hãm địa lại hóa ra đỡ xấu, chịu nhẫn nại qua những phút giây bất thuận thì vẫn có thể được hưởng cảnh bạch đầu giai lão .

Thiên Đồng là phúc tinh cư mệnh dễ gặp may mắn . Nhưng Thiên Đồng là nữ tinh yếu đuối, bản chất thay đổi vô chừng nên càng may mắn càng có khuynh hướng tự gây phiền toái cho mình . Nghĩa là trong cái tốt đã chứa sẵn mầm biến động, khó tìm hạnh phúc với chồng con; ngay cả Đồng Lương miếu ở Dần Thân cũng thế .

49. Cách tuy họa phúc chủ yếu thiện tâm

Tử Vi có nhiều cách khác nhau tuy nhiên họa hay phúc chủ yếu là do lòng từ thiện của mỗi người.

50. Khả dĩ an nhiên đức năng thắng số

Số mệnh vốn là xác suất nên họa phúc đều có thể đổi thay . Nếu phát thiện tâm thì có thể lấy đức thắng số mà được vạn sự an lành .

Tuesday 20 September 2011

CÁC CÁCH NGHỀ NGHIỆP QUA CÁC SAO

C- CÁC CÁCH NGHỀ NGHIỆP QUA CÁC SAO (Tác giả Nguyễn Phát Lộc)

Vấn đề xác định một nghề cụ thể bao giờ cũng khó khăn, dễ sai lầm. Tính cách tạp bác của nghề nghiệp trong xã hội hiện thời không được khoa Tử vi phản ánh đầy đủ. Vì vậy, chỉ có vài nghề cụ thể được quyết đoán, kỳ dư, chỉ có thể định loại nghề mà thôi.

Để cho dễ tra cứu, chúng ta sẽ xếp loại các nghề, và trong mỗi loại, thử tìm ra cách vị trí hóa các sao lệ thuộc. Đại cương có thể chia ra làm :

- Những nghề liên quan đến Văn học.
- Những nghề liên quan đến Kinh doanh
- Những nghề liên quan đến Khoa học ứng dụng
- Những nghề liên quan đến Nghệ thuật
- Những nghề Linh tinh khác

1.Những nghề liên quan đến Văn học
Mặc dù xếp dưới tiêu đề văn học, song chỉ thấy được rõ ràng nghề dạy học, nghề hành luật, nghề chính trị, nghề viết văn là có đủ sao chỉ năng khiếu liên hệ. Còn những nghề phụ khác, tùy theo sự liên hệ xa gần với bốn nghề chính trên, sẽ do những sao tương ứng mô tả.

a) Nghề dạy học
Chúng ta sẽ không ấn định cấp bậc và trình độ giáo dục ở đây vì nó thuộc sự cao thấp của khoa bảng. Chúng ta chỉ liệt kê các sao chỉ năng khiếu giáo khoa. Về mặt năng khiếu, ngành giáo dục phải nói giỏi và học giỏi.

* Nói giỏi: thì có các sao hùng biện mô tả. Điều này đã được đề cập ở chương nói về cách hùng biện, đây chỉ nhắc lại sơ lược.

- Lưu hà: chỉ sự lưu loát của ngôn ngữ, sự phong phú của tư tưởng, sự ngăn nắp của bố cục, sự linh mẫn của lý luận, sự hấp dẫn của nội dung.

- Thái Tuế: chỉ sự nói nhiều, khả năng biện luận, khuynh hướng đấu lý.

- Tấu thư: chỉ sự khôn khéo trong ngôn ngữ, sự thanh nhã của ý tưởng, sự mềm mỏng của cách trình bày, và hiệu lực thuyết phục sâu sắc.

- Hóa khoa: chỉ sự thông thái của tư tưởng, sự cao kiến của học thức, sự khúc chiết của cách trình bày.

- Thiên hình: chỉ khả năng phân tích sắc bén, sự sáng sủa của tư tưởng và của lối nói, lối viết, sự tinh vi của lý luận.

* Học giỏi: thì đã có các sao ăn học phô diễn và được trình bày trong Cách Khoa bảng, ở đây xin nhắc lại những sao cốt yếu:

- Văn xương, văn khúc, văn tinh
- Thiên khôi, thiên việt, Hóa khoa
- Thái dương, Thái âm sáng sủa
- Cự môn, Thiên cơ ở Mão, Dậu
- Thiên Cơ, Thiên lương ở Thìn Tuất
- Long trì, phượng cát, bác sỹ

Không cần hội đủ hết các sao kể trên mới làm giáo học, có khi chỉ cần một hay hai sao. Càng có nhiều sao hội họp thì trình độ giảng huấn càng cao và chức tước càng lớn. Ít sao thì là thầy giáo, nhiều sao là giáo sư, diễn giả.

Hai năng khiếu nói giỏi và học giỏi đó là căn bản cho nhiều nghề khác nữa, ví dụ như chính trị gia, thương thuyết gia, sĩ quan tâm lý chiến các bộ dân vận ứng cử viên tranh cử, cổ động viên. Nếu ít học, thì sẽ hành các nghề thấp hơn như quảng cáo môi giới, hòa giải. Điều này cho thấy, xét về mặt năng khiếu thì nghề nghiệp liên quan với nhau rất nhiều. Ví dụ như nghề quảng cáo thương mại, tuy thuộc về doanh thương, song cần có khả năng hùng biện của một giáo sư. Khiếu ăn nói đó cũng cần cho chính trị gia hay cán bộ chiến tranh chính trị. Thành thử, tiêu đề các nghề liên quan đến văn học, xét về mặt năng khiếu hẳn phải được hiểu theo một nghĩa rất linh động, có thể làm căn bản tổng quát hóa cho nhiều chức nghiệp khác.

Điểm cần lưu ý là xem số giáo sư, nên để tâm nhiều hơn vào cung Nô, vì đa số thầy giáo giỏi cũng có cung Nô rất tốt.

b) Nghề hành luật:

Dưới danh hiệu này có các nghề luật sư, dân biểu, cảnh sát, thám tử, văn phòng cố vấn pháp luật, giáo sư luật học, sinh viên ngành luật... vì luật lệ và chính trị có liên hệ nhau nên nghề này cũng chỉ luôn các chính trị gia mà không đến nỗi sai lầm.

Trong nghề luật, có hai năng khiếu đáng lưu ý là sự tranh biện và tinh thần pháp luật, chưa kể khả năng học vấn phải có. Sự tranh cãi thật ra không khác gì sự hùng biện, cho nên có thể tham chiếu các sao hùng biện để dẫn chứng. Còn vấn đề pháp luật (hay chính trị) có liên quan đến những sao dưới đây:

- Thái tuế, Quan phù, Quan phủ
Thái tuế bao giờ cũng tam chiếu với Quan phù. Còn Quan phủ thì lại đồng nghĩa với Quan phù. Ba sao này điển hình cho ngành luật, mọi chuyện có liên quan đến pháp luật, tù ngục, điều tra, thưa gửi, khiếu nại, bắt bớ đến truy tố, xét xử, bênh vực, tranh chấp...

- Thiên hình:
Sao này cũng chỉ nghề luật, đặc biệt là tư cách bị cáo, bị án, bị điều tra, bị gọi làm nhân chứng,..vv. Trong trường hợp hành nghề luật thì ý nghĩa tích cực ưu thắng: đương sự chuyên xử, truy bắt, bỏ tù, kết án kẻ khác.

Trong một là số đặc biệt tốt, Thiên hình có nghĩa là làm luật, cầm luật.

- Cự Môn, Hóa kỵ:
Hai sao này là ám tinh vừa chỉ sự đa nghi, sự cạnh tranh trước pháp luật, vừa chỉ các vấn đề liên hệ đến luật pháp, từ việc nghiên cứu đến luật pháp, học luật pháp, cho đến dạy luật pháp và hành xử luật pháp. Tư cách nạn nhân của một vụ tranh chấp trước pháp luật cũng được bao hàm, nhất là khi gặp vị trí hãm địa và không hành nghề luật chính tông. Ngoài ra, Hóa kỵ còn là cái lưỡi để cãi lý, để bài xích, chê bai, vu khống, nói xấu, đầu mối của nhiều vụ thưa kiện.


c) Nghề Chính Trị

Như đã trình bày, năng khiếu của chính trị gia bao hàm năng khiếu của giáo sư, của luật sư cho nên các sao mô tả hai nghề này đều ứng dụng cho nghề chính trị. Ngoài ra, có thể có thêm một số sao khác như:

- Phục Binh: Sao này chỉ thủ đoạn, chỉ sự rắp tâm mưu hại kẻ khác, đồng thời cũng có nghĩa là mình bị mưu hại bằng thủ đoạn. Có Thái tuế đi kèm thì càng rõ nghĩa. Đương số phải chịu nhiều búa rìu của dư luận, đồng thời cũng sử dụng dư luận để dập lại đối thủ hay địch thủ. Những năng khiếu đi liền với Phục binh tất phải có, từ sự lừa lọc, gài bẫy, cho đến việc đánh úp, bôi nhọ, thanh lọc, kiềm chế, bế tỏa, ngăn trở, chèn ép, chúp mũ...

- Thiên Không: Gần như đồng nghĩa với Phục Binh, chỉ tư chất lưu manh của hành động, mánh khóe, xảo thuật ứng dụng để loại trừ đối thủ hoặc để tự vệ, chống đỡ phản đòn của họ cũng bằng cách thủ đoạn đó.

- Bạch hổ: Chỉ xu hướng hoạt động chính trị của phái nam, đối thủ chỉ sự hùng biện, sự kích động, sự lôi cuốn thiên hạ bằng ngôn ngữ có tâm huyết, có khí phách, có tác dụng xách động, có dụng tâm cổ võ tranh đấu.

- Thiên Khốc, Thiên Hư đắc địa cũng đồng nghĩa, nếu được đắc địa thì xu hướng chính trị có triển vọng, ngôn ngữ đắc dụng và có hiệu quả. Nếu hãm địa thì có khuynh hướng sai ngoa, xuyên tạc nhiều hơn, tuy không hẳn có nghĩa thất bại.

Lẽ dĩ nhiên, các ý nghĩa của năng khiếu chính trị trên chỉ liên quan nhiều đến phái nam.

Ngoài ra, nghề chính trị còn đòi cung Nô tốt hoặc là có nhiều sao chỉ nhân lực trợ giúp. Có như thế, chính trị gia mới có tập đoàn ủng hộ và dân chúng hậu thuẫn, giúp cho sự tiến đạt và sự thành công dễ dàng và bền vững.

d) Nghề Viết Văn:

Nghề này tập hợp các Văn thi sĩ, tác giả viết tuồng, ký giả, phóng sự, nhà khảo cứu đủ mọi ngành và mọi giới.

Đặc tính chung của họ là giấy, bút, mực, hội với khả năng học vấn. Còn ngành chuyên môn thì tùy theo các sao khác nói trong cách khoa bảng.

- Thiên Tướng: Về vật dụng, Thiên tướng chỉ cây bút. Về tính tình, thiên tướng chỉ con người thấy sự bất bình không nhịn được, phải cải sửa, sửa dời. Tuy nhiên, riêng sao Thiên tướng chưa đủ diễn tả tư cách viết văn, phải có thêm các sao khác.

- Tấu thư, Đà la, Ân quang, Thiên quý:
Tấu thư là giấy, Đà la là mực, Ân quan, Thiên quý là bài vở. Ngoài ra, tấu thư còn chỉ sự sắc bén, sự tế nhị của lời văn, ngòi bút, Ân quang, thiên quý chỉ sự tha thiết, hay là cái hoài bão cải tạo con người cho tốt thêm.

- Tả phù, Hữu bật, Hóa khoa:
Bộ sao này chỉ ngành và nghề dịch thuật, vì Khoa chỉ học vấn, đi với Tả, Hữu có nghĩa là biết nhiều ngoại ngữ. Tả Hữu có thể đi với Văn Xương, Văn Khúc hay Văn tinh... để chỉ nghề dịch, người thông ngôn.

Nghề viết văn vẫn có thể có năng khiếu của Thầy dạy học, của Luật sư và vẫn có thể được bổ túc bằng các sao mô tả đặc tính của hai loại nghề này. Cho dù hành nghề nào đi nữa mà có nhiều sao kể trên thì cũng có sáng tác, xuất bản. Có thể nói rộng ra chỉ những nghề in sách. Nếu văn sĩ có thêm các sao tình dục thì có thể viết các dâm thư, kiểu như Hồ Xuân Hương.


2) NHỮNG NGHỀ LIÊN QUAN ĐẾN KINH, THƯƠNG
Ngành kinh doanh, thương mại có rất nhiều ngành phụ thuộc, nhất là vào thời đại hiện giờ. Khoa Tử vi chưa theo kịp đà phát triển của lãnh vực kinh thương trong xã hội mới cho nên chỉ tập hợp được vài bộ sao tương đối ít ỏi, các ngành tổng quát hơn là cái nghiệp cụ thể.

a)Nghề thương mại:
Thương mại, quy tụ rất nhiều nghề từ buôn lẻ đến cho vay tín dụng, ngân hàng, xuất nhập cảng, vận tải, môi giới... Duy, hầu hết đều có các đặc tính chung là : liên quan đến tiền bạc, sự tham lam, óc tính toán và tài tháo vát.

* Tính Tham do các sao dưới đây mô tả:

- Tham Lang:
Sao này điển hình cho con buôn, người có óc kinh doanh và hám lợi. Vì thế, đi với bất cứ tài tinh nào đều có ý nghĩa kiếm lời bằng hình thái này nọ, đặc biệt là trục lợi trong thương trường.

Ở thế đắc địa, tính hám lợi thường gặp may mắn, dễ làm giàu, nhất là từ 30 tuổi về sau. Người có Tham đắc địa dám mưu sự lớn lao, đầu tư vào các lãnh vực rộng lớn của nền kinh tế, có óc mạo hiểm táo bạo.

Ở thế hãm địa như Tý Ngọ Tị Hợi, lòng tham càng dữ dội hơn khả dĩ đến chỗ thất tín, bất nhân. Đây là thế của gian thuơng đầu cơ, tích trữ, lũng đoạn kinh tế, không quan tâm đến đạo đức xã hội, dù là tối thiểu.

- Phá Quân (Hãm địa):
ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi, Phá quân vô cùng hám lợi. Riêng ở Tỵ, Hợi, đi với Vũ khúc sự tham tiền này đi tới chỗ bất lương. Duy cách này thường gặp phá sản, khánh tận hoặc buôn bán khổ nhọc ở phương xa.

* Óc Tính toán và mưu trí trong thương trường thường được mô tả bởi những bộ sao dưới đây:

- Thiên cơ, Cự Môn Mão Dậu
- Thiên cơ, Thiên lương đồng cung
- Thiên đồng, Thiên lương đồng cung
- Thiên đồng, Thái âm đồng cung ở Ngọ

Những bộ sao này không nặng tính tham mà thiên về mưu trí, sự tinh xảo trong nghề buôn, sự hiểu biết rõ ràng thương trường, tài buôn bán. Hầu hết là phúc tinh cho nên việc thương mại tương đối lương thiện.

Ngoài ra, tất cả các sao nói lên trí thông minh đều ứng dụng được trong doanh thương.

- Thiên Mã, Lộc Tồn
Sao Mã chỉ sự tháo vát, lanh lợi, đa tài, tinh thần xông pha, lăn lóc, là các đức tính rất cần thiết cho nghiệp vụ thương mại. Vì thế, mã đi với bất cứ tinh nào cũng đều đắc lợi và có ý nghĩa buôn bán, nhất là tọa thủ ở Cung Tỵ hay cung Thân, Mệnh, Quan.

Riêng ở Hợi thì phải cực nhọc mới kiếm lời được. Vì tại đó Thiên Mã hãm địa, việc buôn bán không gặp thời vận tốt. Tốt nhất là ở Dần, Tỵ, rồi mới đến Thân.

Vì Mã chỉ sự lưu động cho nên các ngành buôn của sao này liên hệ đến ngành vận tải, đường bộ hay đường hàng không, hoặc là các ngành môi giới, giao thiệp lưu động, nghiên cứu thị trường ở nhiều nơi.

Lộc tồn đồng nghĩa với Thiên Mã, nhưng không có ý nghĩa lưu động. Cả hai kết hợp thì rất đặc sắc cho việc buôn bán.

* Tinh thần cạnh tranh cũng là đức tính thương mại. Những sao liên hệ gồm có:

- Quan phù, Quan phủ
- Phục Binh, Hóa kỵ

Hai sao Quan phù, quan phủ chỉ óc thi đua, sự cạnh tranh, thường đi đôi với mưu mẹo, lừa gạt, nói dối. Hóa kỵ vừa có nghĩa đố kỵ, sợ người khác hơn mình, vừa có nghĩa miệng lưỡi, môi miếng. Phục binh là sao thủ đoạn. Cả bốn sao đều đắc dụng cho doanh thương, duy phương cách cạnh tranh không mấy gì ngay thẳng, thường đưa đến sự mưu hại lẫn nhau một cách ngấm ngầm.

* Vấn đề tiền bạc:
Có lẽ là đặc điểm chính yếu của người buôn bán vì đầu óc họ thường bị ám ảnh bởi đồng tiền, cái gì cũng tính ra tiền. Do đó, số doanh thương nhất định phải có nhiều sao tài hội tụ vào cung Quan, Tài, Mệnh, Thân. Có rất nhiều sao tài, hầu hết được liệt kê trong Các Cách Giàu, được tham chiếu để tìm hiểu thêm đặc tính của các nghề kinh thương.

b) Nghề kỹ nghệ
Trong quyển
Tử vi đẩu số, Thái Thứ Lang có chú giải rằng kỹ nghệ là "nghề nghiệp khó nhọc". Có lẽ đây là một quan niệm xưa, lúc kỹ nghệ cơ khí chưa xuất hiện, lúc con người còn ở giai đoạn bán khai về chế tạo đồ dùng cho nhu cầu hằng ngày. Quan niệm đó ngày nay không còn thích dụng. Vì vậy các sao của kỹ nghệ không thể là những bộ sao cũ kỹ được kể ra kể trên. Hiện thời sự phát triển của kỹ nghệ nảy sinh ra rất nhiều nghề hệ thuộc, đòi hỏi trình độ học vấn rất cao, và hơn nữa rất đắc lợi. Thành thử, những sao chỉ kỹ nghệ trong sách của Thái Thứ Lang, đa số thuộc hãm tinh, xét ra không mấy thích hợp. Vả chăng, chúng ta phải phân biệt kỹ nghệ gia với công nhân lao động làm việc về máy móc. Nếu nói kỹ nghệ là nghề nghiệp khó nhọc thì định nghĩa này chỉ đúng cho hạng lao động, thợ máy, thợ tiện, thợ dệt, thợ nhuộm, thợ rèn... chớ không áp dụng cho các chủ nhân, các nhà tư bản kỹ nghệ, chuyên viên hay kỹ sư, kỹ thuật gia hoạt động trong ngành kỹ nghệ.

Đối với hạng công nhân kỹ nghệ, các sao dưới đây có thể thích dụng:

- Phá Quân ở Dần Thân, Thìn Tuất
- Thất sát, Kình dương
- Vũ khúc, Phá Quân đồng cung
- Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung
- Thiên Cơ, Thiên hình, Kiếp sát
- Kình dương, Hỏa hay Linh tinh
- Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung

Những bộ sao trên không đắc địa, gần như có nghĩa bần hàng, cực khổ có thể thích hợp cho người làm công nhân.

Đối với hạng chủ nhân, chuyên viên, kỹ sư, tư bản hoạt động trong ngành kỹ nghệ, họ có sao học vấn cao, hoặc là có những bộ sao trên nhưng sáng sủa nhờ Tuần, Triệt hay ở vị trí đắc địa, đồng thời cũng phải có những bộ sao của nghề thương mại. Trong ngành kỹ nghệ nói riêng có hai sao dưới đây đáng lưu ý:

- Thiên Cơ

Sao này chỉ loại máy móc lớn nhỏ của ngành kỹ nghệ từ máy xe máy kéo, máy tiện cho đến máy tàu, máy luyện thép, máy khoan vv... Mặc khác, Thiên Cơ còn chỉ sự tinh xảo trong nghề nghiệp. Hai ý nghĩa này ghép lại chỉ người chuyên môn về máy móc. Đắc địa thì là kỹ sư, hãm địa thì là thợ máy.

Thiên cơ có thể đi chung với một số sao khác để xác định loại máy, loại nghề liên quan đến máy đó, ví dụ:

- Thiên Cơ, Hỏa tinh hay Linh tinh để chỉ máy hay lò luyện sắt thép, nấu quặng, hoặc máy tạo hơi nóng, máy sấy, máy phát điện.

- Thiên Cơ, Thái Âm hay Thiếu Dương, Thiếu Âm để chỉ máy điện và tất cả các loại máy móc gì sử dụng đến điện, cũng có thể là máy điện tử.

- Thiên Cơ, Thiên Mã, chỉ máy xe các loại (xe hơi, xe hỏa, xe điện) hay máy phi cơ, máy tàu thủy (coi như các phương tiện di chuyển biểu tượng bằng sao Thiên Mã)

- Thiên hình, sao này chỉ dao, kéo hay cơ khí, nói chung các sản phẩm kỹ nghệ bằng kim khí.

Với hai sao này, một sao chỉ máy móc, một sao chỉ sản phẩm kim khí chế tạo được, khoa tử vi rất nghèo nàn khi mô tả kỹ nghệ và các nghề liên quan đến kỹ nghệ. Ngành này tương đối mới mẻ cho nên khoa Tử vi chưa có đào sâu. Hơn nữa, khoa này học về sự thịnh suy của vận số con người hơn là khảo cứu nghề nghiệp và càng không phải là khoa kỹ nghệ.

3) Những nghề liên quan đến Khoa học ứng dụng

Trong lĩnh vực này, khoa tử vi cũng nghèo nàn. Chỉ thấy được các nghề điện, nha, dược, y và nghề kiến trúc.

a) Nghề điện có các sao tượng trưng dưới đây:

- Thái dương, Thái âm
- Thiếu dương, Thiếu âm
- Hỏa tinh, Linh tinh

Bộ sao này chỉ các thể khí đối lập và tạo nhiệt, có thể hình dung được điện học hay điện tử, cùng với những ứng dụng phức tạp của hai ngành này.

b) Nghề Nha

- Tuế phá, chỉ bộ răng
- Thiên hình hay Kiếp sát chỉ sự mổ xẻ, chắp vá
- Tấu thư hay Hồng loan chỉ khéo tay, tinh xảo

c) Nghề dược có hai sao cụ thể là :

- Thiên y chỉ thuốc men
- Hóa kỵ chỉ các dung dịch, hóa chất bào chế

d) Nghề Y

Nghề này có khá nhiều sao biểu diễn. Vì y sĩ là người cứu độ thiên hạ và là người có hiểu biết về y khoa cho nên phải có những sao chỉ hai loại năng khiếu đó.

*
Về mặt cứu độ có những sao cứu độ có y tinh phải kể là :

- Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương

Bốn sao này gồm bộ phúc tinh, chỉ sự làm việc nghĩa. Người có cách này có thiên tính, hay giúp đỡ kẻ khác, có khuynh hướng xã hội rất cao, hay làm phúc, tích phúc, tạo phúc và có cơ hội tích phúc. Tuy không trực tiếp có ý nghĩa y học, song đây là bộ sao cứu độ cần thiết cho y sĩ.

- Thiên Tướng

Sao này biểu tượng cho vị cứu tinh của nhân loại, mang lại công bình, hạnh phúc cho nhân thế trong tinh thần cứu nhân độ thế. Thiên tướng là vị tướng của Trời, dĩ nhiên được dùng để cứu rỗi hơn là để sát phạt.

- Thiên Y

Tuy là phụ tinh nhưng Thiên y trực tiếp nói về y học. Người có Thiên y có tính sạch sẽ, vệ sinh và có năng khiếu về thuốc men. Ngoài ra, Thiên y cũng có nghĩa cứu giải bệnh tật và có nghĩa hay dùng thuốc khi có bệnh.

Những sao trên cần đóng ở cung Mệnh, Thân hay Quan mới có điều kiện cứu độ của một y sĩ, mới có triển vọng hành nghề nhiều nhất. Nếu đóng ở Tài thì y sĩ này có xu hướng lý tài, trục lợi và bóc lột bệnh nhân, mặc dù ở cung đó, tài lộc sẽ được dồi dào hơn ở vị trí khác.

Ngoài ra, còn có những sao trợ, ý nghĩa là làm tăng thêm triển vọng cho nghề thuốc, đồng thời cũng tạo thêm phúc đức thực tại cho đương số.

- Ân Quang, Thiên quý
- Thiên quan, Thiên phúc
- Tả phù, Hữu bật

Ân Quang, Thiên Quý chỉ cái phúc do Trời ban cho. Đi với bộ sao bác sỹ, ông này sẽ được nổi tiếng nhờ mát tay, nhờ hên may, được linh thiên phù trợ, soi sáng dẫn dắt trong vấn đề trị liệu. Đồng thời Quang, Quý cũng nói lên tinh thần vị tha cao độ của một y sĩ có lương tâm chức nghiệp, yêu nghề, tin nơi nghề và được nghề đãi ngộ xứng đáng, lấy việc cứu người làm lẽ sống cao cả, ít quan tâm đến khía cạnh tiền bạc của nghề thuốc.

Thiên Quan, Thiên Phúc cũng là phúc tinh, nó lên xu hướng xã hội của y sĩ. Bốn sao này, y sĩ hay bố thí, cứu người không lấy tiền, làm việc với sự tận tâm và vị tha nhờ đó mà được nổi danh bác ái kiểu như Albert Swmeitzer.

Còn Tả phù, Hữu bật, trong cách y sĩ cũng có nhiều ý nghĩa cứu độ làm phúc, nhưng thông thường, hai sao này nặng về ý nghĩa đắc thời, có sự nghiệp y dược lớn, cụ thể như có bệnh viện riêng, được bác sỹ, y tá trợ giúp. Với Tả, Hữu, y sĩ không làm việc một cách đơn độc mà hành nghề chung với một tập đoàn y sĩ khác, hùn hạp chung vốn, chung sức trong một bệnh viện.

- Thiên giải, Địa giải, Giải Thần

Đứng về mặt y học, ba sao này có hiệu lực hóa giải bệnh tật. Người có bệnh gặp các sao này thì mau hết bệnh vì gặp thầy, gặp thuốc. Còn Y sĩ mà có ba sao này thì cứu mạng và chữa trị rất công hiệu cho bệnh nhân.


Về năng khiếu chuyên khoa:  Có thể nói rằng các ngành chuyên khoa trong y học không được phát triển trong xã hội Trung hoa thời xưa.  Chỉ thấy thời đó có hai phương pháp trị liệu là bằng thuốc men và bằng giải phẩu.  Không thấy nói đến các chuyên khoa trên các bộ phận chính của cơ thể hoặc trên y học kỹ thuật. 

Dựa trên ý nghĩa cơ thể và kỹ thuật của một số sao ta có thể suy diễn tạm thời hai loại chuyên khoa: một về kỹ thuật và một về cơ thể. 

* Những chuyên khoa có tính chất kỹ thuật do những sao dưới đây diễn tả:

- THÁI ÂM, THÁI DƯƠNG
Đây là hai loại khí đối lập của trời đất, có thể tượng trưng cho điện khí.  Ứng dụng vào y học kỹ thuật, y sĩ nào có thêm sao Âm, Dương chiếu có thể là bác sỹ điện hay chụp hình hoặc là bác sỹ sử dụng các phương pháp chữa trị bằng điện, bằng quang tuyến hay tia phóng xạ.

- THIẾU ÂM, THIẾU DƯƠNG:
Hai sao này có ý nghĩa tương tự như trên, duy vì nó chỉ yếu tố âm dương cực nhỏ cho nên có thể đồng hóa với điện tử nhưng với tầm ứng dụng thực nghiệm đang phát triển cao độ hiện nay.

- THIÊN HÌNH, KIẾP SÁT:
Chỉ dụng cụ mổ xẻ, cho nên ngành ứng dụng là giải phẩu, chắp vá, thay thế bộ phận tự nhiên bằng bộ phận nhân tạo có tính cách kỹ thuật (tim nhân tạo, thận nhân tạo).

Những chuyên khoa trong cơ thể bao gồm các ngành đặc biệt dưới đây:

- Thái âm, Thái dương:
Âm, Dương là hai mắt và hệ thần kinh đồng thời cũng là tâm linh con người.  Vì vậy, bác sỹ nào có hai sao này có thể là bác sỹ nhãn khoa, bác sỹ thần kinh hay tâm linh.

- Tuế phá: vì chỉ bộ răng nên sẽ là bác sỹ nha khoa

- Phá toái, long trì, phượng các: Phá toái chỉ cuống họng, Long trì là lỗ mũi, Phượng các là lỗ tai.  Ba sao này ứng dụng với ngành Tai Mũi Họng.

- Mộc dục, Thai hay Đào hoa, Hồng loan:
Mộc dục chỉ tử cung, Thai chỉ bào thai, âm hộ. Đào hồng chỉ phụ nữ.  Đây là bác sỹ trị bệnh đàn bà, bác sỹ chuyên trị khoa sản, thai sản và các bệnh liên quan đến hạnh phúc lứa đôi.

- Hỷ thần: bác sỹ chuyên về TRĩ vì Hỷ thần là hậu môn

- Thiên Riêu, Kình dương: hai sao này liên quan đến bộ phận sinh dục, nhất là của phái nam. Đi với bộ sao y sĩ , ngành chuyên khoa sẽ là bệnh phong tình hay các bệnh phụ tùy của cơ quan sinh dục như liệt dương, teo chim..

- Bạch hổ, địa kiếp: hai sao này tương ứng với bệnh Ung Thư

- Thiên hình, Kiếp sát: Đây là bác sỹ châm cứu
- Đào hoa, Hồng loan, Hoa cái: ba sao này có nghĩa chưng diện, làm dáng. Ngành chuyên khoa sẽ là thẩm mỹ, chuyên sửa sắc đẹp.

- Thiên mã, Kình dương, Đà la: Các sao này chỉ chân tay, liên quan đến ngành chỉnh hình, làm chân tay giả, huấn luyện cử động hoặc là chuyên khoa của bệnh tê liệt, bại liệt.

- Ngoài ra, nếu không có chuyên khoa nào nhưng có cao Hóa kỵ (chỉ hóa chất, thuốc men)  thì đây là bác sỹ trị liệu tổng quát, đa khoa.

- Nếu các sao trên không hẳn nói lên ngành chuyên khoa của y sĩ thì có thể liên quan đến luận án của họ.  SAu cùng nếu có thêm Thái tuế, Lưu hà, Hóa khoa, Văn xương, Văn khúc thì có dạy và sáng tác về y khoa.  Nếu có thêm Khôi, Việt thì trong ngành chuyên môn, đương số rất nổi danh có thể là Chủ Tịch Hội Đồng Y khoa hay Chủ tịch Y Sĩ Đoàn.

---- còn tiếp-----