Total Pageviews

Tuesday 20 September 2011

CÁC CÁCH NGHỀ NGHIỆP QUA CÁC SAO

C- CÁC CÁCH NGHỀ NGHIỆP QUA CÁC SAO (Tác giả Nguyễn Phát Lộc)

Vấn đề xác định một nghề cụ thể bao giờ cũng khó khăn, dễ sai lầm. Tính cách tạp bác của nghề nghiệp trong xã hội hiện thời không được khoa Tử vi phản ánh đầy đủ. Vì vậy, chỉ có vài nghề cụ thể được quyết đoán, kỳ dư, chỉ có thể định loại nghề mà thôi.

Để cho dễ tra cứu, chúng ta sẽ xếp loại các nghề, và trong mỗi loại, thử tìm ra cách vị trí hóa các sao lệ thuộc. Đại cương có thể chia ra làm :

- Những nghề liên quan đến Văn học.
- Những nghề liên quan đến Kinh doanh
- Những nghề liên quan đến Khoa học ứng dụng
- Những nghề liên quan đến Nghệ thuật
- Những nghề Linh tinh khác

1.Những nghề liên quan đến Văn học
Mặc dù xếp dưới tiêu đề văn học, song chỉ thấy được rõ ràng nghề dạy học, nghề hành luật, nghề chính trị, nghề viết văn là có đủ sao chỉ năng khiếu liên hệ. Còn những nghề phụ khác, tùy theo sự liên hệ xa gần với bốn nghề chính trên, sẽ do những sao tương ứng mô tả.

a) Nghề dạy học
Chúng ta sẽ không ấn định cấp bậc và trình độ giáo dục ở đây vì nó thuộc sự cao thấp của khoa bảng. Chúng ta chỉ liệt kê các sao chỉ năng khiếu giáo khoa. Về mặt năng khiếu, ngành giáo dục phải nói giỏi và học giỏi.

* Nói giỏi: thì có các sao hùng biện mô tả. Điều này đã được đề cập ở chương nói về cách hùng biện, đây chỉ nhắc lại sơ lược.

- Lưu hà: chỉ sự lưu loát của ngôn ngữ, sự phong phú của tư tưởng, sự ngăn nắp của bố cục, sự linh mẫn của lý luận, sự hấp dẫn của nội dung.

- Thái Tuế: chỉ sự nói nhiều, khả năng biện luận, khuynh hướng đấu lý.

- Tấu thư: chỉ sự khôn khéo trong ngôn ngữ, sự thanh nhã của ý tưởng, sự mềm mỏng của cách trình bày, và hiệu lực thuyết phục sâu sắc.

- Hóa khoa: chỉ sự thông thái của tư tưởng, sự cao kiến của học thức, sự khúc chiết của cách trình bày.

- Thiên hình: chỉ khả năng phân tích sắc bén, sự sáng sủa của tư tưởng và của lối nói, lối viết, sự tinh vi của lý luận.

* Học giỏi: thì đã có các sao ăn học phô diễn và được trình bày trong Cách Khoa bảng, ở đây xin nhắc lại những sao cốt yếu:

- Văn xương, văn khúc, văn tinh
- Thiên khôi, thiên việt, Hóa khoa
- Thái dương, Thái âm sáng sủa
- Cự môn, Thiên cơ ở Mão, Dậu
- Thiên Cơ, Thiên lương ở Thìn Tuất
- Long trì, phượng cát, bác sỹ

Không cần hội đủ hết các sao kể trên mới làm giáo học, có khi chỉ cần một hay hai sao. Càng có nhiều sao hội họp thì trình độ giảng huấn càng cao và chức tước càng lớn. Ít sao thì là thầy giáo, nhiều sao là giáo sư, diễn giả.

Hai năng khiếu nói giỏi và học giỏi đó là căn bản cho nhiều nghề khác nữa, ví dụ như chính trị gia, thương thuyết gia, sĩ quan tâm lý chiến các bộ dân vận ứng cử viên tranh cử, cổ động viên. Nếu ít học, thì sẽ hành các nghề thấp hơn như quảng cáo môi giới, hòa giải. Điều này cho thấy, xét về mặt năng khiếu thì nghề nghiệp liên quan với nhau rất nhiều. Ví dụ như nghề quảng cáo thương mại, tuy thuộc về doanh thương, song cần có khả năng hùng biện của một giáo sư. Khiếu ăn nói đó cũng cần cho chính trị gia hay cán bộ chiến tranh chính trị. Thành thử, tiêu đề các nghề liên quan đến văn học, xét về mặt năng khiếu hẳn phải được hiểu theo một nghĩa rất linh động, có thể làm căn bản tổng quát hóa cho nhiều chức nghiệp khác.

Điểm cần lưu ý là xem số giáo sư, nên để tâm nhiều hơn vào cung Nô, vì đa số thầy giáo giỏi cũng có cung Nô rất tốt.

b) Nghề hành luật:

Dưới danh hiệu này có các nghề luật sư, dân biểu, cảnh sát, thám tử, văn phòng cố vấn pháp luật, giáo sư luật học, sinh viên ngành luật... vì luật lệ và chính trị có liên hệ nhau nên nghề này cũng chỉ luôn các chính trị gia mà không đến nỗi sai lầm.

Trong nghề luật, có hai năng khiếu đáng lưu ý là sự tranh biện và tinh thần pháp luật, chưa kể khả năng học vấn phải có. Sự tranh cãi thật ra không khác gì sự hùng biện, cho nên có thể tham chiếu các sao hùng biện để dẫn chứng. Còn vấn đề pháp luật (hay chính trị) có liên quan đến những sao dưới đây:

- Thái tuế, Quan phù, Quan phủ
Thái tuế bao giờ cũng tam chiếu với Quan phù. Còn Quan phủ thì lại đồng nghĩa với Quan phù. Ba sao này điển hình cho ngành luật, mọi chuyện có liên quan đến pháp luật, tù ngục, điều tra, thưa gửi, khiếu nại, bắt bớ đến truy tố, xét xử, bênh vực, tranh chấp...

- Thiên hình:
Sao này cũng chỉ nghề luật, đặc biệt là tư cách bị cáo, bị án, bị điều tra, bị gọi làm nhân chứng,..vv. Trong trường hợp hành nghề luật thì ý nghĩa tích cực ưu thắng: đương sự chuyên xử, truy bắt, bỏ tù, kết án kẻ khác.

Trong một là số đặc biệt tốt, Thiên hình có nghĩa là làm luật, cầm luật.

- Cự Môn, Hóa kỵ:
Hai sao này là ám tinh vừa chỉ sự đa nghi, sự cạnh tranh trước pháp luật, vừa chỉ các vấn đề liên hệ đến luật pháp, từ việc nghiên cứu đến luật pháp, học luật pháp, cho đến dạy luật pháp và hành xử luật pháp. Tư cách nạn nhân của một vụ tranh chấp trước pháp luật cũng được bao hàm, nhất là khi gặp vị trí hãm địa và không hành nghề luật chính tông. Ngoài ra, Hóa kỵ còn là cái lưỡi để cãi lý, để bài xích, chê bai, vu khống, nói xấu, đầu mối của nhiều vụ thưa kiện.


c) Nghề Chính Trị

Như đã trình bày, năng khiếu của chính trị gia bao hàm năng khiếu của giáo sư, của luật sư cho nên các sao mô tả hai nghề này đều ứng dụng cho nghề chính trị. Ngoài ra, có thể có thêm một số sao khác như:

- Phục Binh: Sao này chỉ thủ đoạn, chỉ sự rắp tâm mưu hại kẻ khác, đồng thời cũng có nghĩa là mình bị mưu hại bằng thủ đoạn. Có Thái tuế đi kèm thì càng rõ nghĩa. Đương số phải chịu nhiều búa rìu của dư luận, đồng thời cũng sử dụng dư luận để dập lại đối thủ hay địch thủ. Những năng khiếu đi liền với Phục binh tất phải có, từ sự lừa lọc, gài bẫy, cho đến việc đánh úp, bôi nhọ, thanh lọc, kiềm chế, bế tỏa, ngăn trở, chèn ép, chúp mũ...

- Thiên Không: Gần như đồng nghĩa với Phục Binh, chỉ tư chất lưu manh của hành động, mánh khóe, xảo thuật ứng dụng để loại trừ đối thủ hoặc để tự vệ, chống đỡ phản đòn của họ cũng bằng cách thủ đoạn đó.

- Bạch hổ: Chỉ xu hướng hoạt động chính trị của phái nam, đối thủ chỉ sự hùng biện, sự kích động, sự lôi cuốn thiên hạ bằng ngôn ngữ có tâm huyết, có khí phách, có tác dụng xách động, có dụng tâm cổ võ tranh đấu.

- Thiên Khốc, Thiên Hư đắc địa cũng đồng nghĩa, nếu được đắc địa thì xu hướng chính trị có triển vọng, ngôn ngữ đắc dụng và có hiệu quả. Nếu hãm địa thì có khuynh hướng sai ngoa, xuyên tạc nhiều hơn, tuy không hẳn có nghĩa thất bại.

Lẽ dĩ nhiên, các ý nghĩa của năng khiếu chính trị trên chỉ liên quan nhiều đến phái nam.

Ngoài ra, nghề chính trị còn đòi cung Nô tốt hoặc là có nhiều sao chỉ nhân lực trợ giúp. Có như thế, chính trị gia mới có tập đoàn ủng hộ và dân chúng hậu thuẫn, giúp cho sự tiến đạt và sự thành công dễ dàng và bền vững.

d) Nghề Viết Văn:

Nghề này tập hợp các Văn thi sĩ, tác giả viết tuồng, ký giả, phóng sự, nhà khảo cứu đủ mọi ngành và mọi giới.

Đặc tính chung của họ là giấy, bút, mực, hội với khả năng học vấn. Còn ngành chuyên môn thì tùy theo các sao khác nói trong cách khoa bảng.

- Thiên Tướng: Về vật dụng, Thiên tướng chỉ cây bút. Về tính tình, thiên tướng chỉ con người thấy sự bất bình không nhịn được, phải cải sửa, sửa dời. Tuy nhiên, riêng sao Thiên tướng chưa đủ diễn tả tư cách viết văn, phải có thêm các sao khác.

- Tấu thư, Đà la, Ân quang, Thiên quý:
Tấu thư là giấy, Đà la là mực, Ân quan, Thiên quý là bài vở. Ngoài ra, tấu thư còn chỉ sự sắc bén, sự tế nhị của lời văn, ngòi bút, Ân quang, thiên quý chỉ sự tha thiết, hay là cái hoài bão cải tạo con người cho tốt thêm.

- Tả phù, Hữu bật, Hóa khoa:
Bộ sao này chỉ ngành và nghề dịch thuật, vì Khoa chỉ học vấn, đi với Tả, Hữu có nghĩa là biết nhiều ngoại ngữ. Tả Hữu có thể đi với Văn Xương, Văn Khúc hay Văn tinh... để chỉ nghề dịch, người thông ngôn.

Nghề viết văn vẫn có thể có năng khiếu của Thầy dạy học, của Luật sư và vẫn có thể được bổ túc bằng các sao mô tả đặc tính của hai loại nghề này. Cho dù hành nghề nào đi nữa mà có nhiều sao kể trên thì cũng có sáng tác, xuất bản. Có thể nói rộng ra chỉ những nghề in sách. Nếu văn sĩ có thêm các sao tình dục thì có thể viết các dâm thư, kiểu như Hồ Xuân Hương.


2) NHỮNG NGHỀ LIÊN QUAN ĐẾN KINH, THƯƠNG
Ngành kinh doanh, thương mại có rất nhiều ngành phụ thuộc, nhất là vào thời đại hiện giờ. Khoa Tử vi chưa theo kịp đà phát triển của lãnh vực kinh thương trong xã hội mới cho nên chỉ tập hợp được vài bộ sao tương đối ít ỏi, các ngành tổng quát hơn là cái nghiệp cụ thể.

a)Nghề thương mại:
Thương mại, quy tụ rất nhiều nghề từ buôn lẻ đến cho vay tín dụng, ngân hàng, xuất nhập cảng, vận tải, môi giới... Duy, hầu hết đều có các đặc tính chung là : liên quan đến tiền bạc, sự tham lam, óc tính toán và tài tháo vát.

* Tính Tham do các sao dưới đây mô tả:

- Tham Lang:
Sao này điển hình cho con buôn, người có óc kinh doanh và hám lợi. Vì thế, đi với bất cứ tài tinh nào đều có ý nghĩa kiếm lời bằng hình thái này nọ, đặc biệt là trục lợi trong thương trường.

Ở thế đắc địa, tính hám lợi thường gặp may mắn, dễ làm giàu, nhất là từ 30 tuổi về sau. Người có Tham đắc địa dám mưu sự lớn lao, đầu tư vào các lãnh vực rộng lớn của nền kinh tế, có óc mạo hiểm táo bạo.

Ở thế hãm địa như Tý Ngọ Tị Hợi, lòng tham càng dữ dội hơn khả dĩ đến chỗ thất tín, bất nhân. Đây là thế của gian thuơng đầu cơ, tích trữ, lũng đoạn kinh tế, không quan tâm đến đạo đức xã hội, dù là tối thiểu.

- Phá Quân (Hãm địa):
ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi, Phá quân vô cùng hám lợi. Riêng ở Tỵ, Hợi, đi với Vũ khúc sự tham tiền này đi tới chỗ bất lương. Duy cách này thường gặp phá sản, khánh tận hoặc buôn bán khổ nhọc ở phương xa.

* Óc Tính toán và mưu trí trong thương trường thường được mô tả bởi những bộ sao dưới đây:

- Thiên cơ, Cự Môn Mão Dậu
- Thiên cơ, Thiên lương đồng cung
- Thiên đồng, Thiên lương đồng cung
- Thiên đồng, Thái âm đồng cung ở Ngọ

Những bộ sao này không nặng tính tham mà thiên về mưu trí, sự tinh xảo trong nghề buôn, sự hiểu biết rõ ràng thương trường, tài buôn bán. Hầu hết là phúc tinh cho nên việc thương mại tương đối lương thiện.

Ngoài ra, tất cả các sao nói lên trí thông minh đều ứng dụng được trong doanh thương.

- Thiên Mã, Lộc Tồn
Sao Mã chỉ sự tháo vát, lanh lợi, đa tài, tinh thần xông pha, lăn lóc, là các đức tính rất cần thiết cho nghiệp vụ thương mại. Vì thế, mã đi với bất cứ tinh nào cũng đều đắc lợi và có ý nghĩa buôn bán, nhất là tọa thủ ở Cung Tỵ hay cung Thân, Mệnh, Quan.

Riêng ở Hợi thì phải cực nhọc mới kiếm lời được. Vì tại đó Thiên Mã hãm địa, việc buôn bán không gặp thời vận tốt. Tốt nhất là ở Dần, Tỵ, rồi mới đến Thân.

Vì Mã chỉ sự lưu động cho nên các ngành buôn của sao này liên hệ đến ngành vận tải, đường bộ hay đường hàng không, hoặc là các ngành môi giới, giao thiệp lưu động, nghiên cứu thị trường ở nhiều nơi.

Lộc tồn đồng nghĩa với Thiên Mã, nhưng không có ý nghĩa lưu động. Cả hai kết hợp thì rất đặc sắc cho việc buôn bán.

* Tinh thần cạnh tranh cũng là đức tính thương mại. Những sao liên hệ gồm có:

- Quan phù, Quan phủ
- Phục Binh, Hóa kỵ

Hai sao Quan phù, quan phủ chỉ óc thi đua, sự cạnh tranh, thường đi đôi với mưu mẹo, lừa gạt, nói dối. Hóa kỵ vừa có nghĩa đố kỵ, sợ người khác hơn mình, vừa có nghĩa miệng lưỡi, môi miếng. Phục binh là sao thủ đoạn. Cả bốn sao đều đắc dụng cho doanh thương, duy phương cách cạnh tranh không mấy gì ngay thẳng, thường đưa đến sự mưu hại lẫn nhau một cách ngấm ngầm.

* Vấn đề tiền bạc:
Có lẽ là đặc điểm chính yếu của người buôn bán vì đầu óc họ thường bị ám ảnh bởi đồng tiền, cái gì cũng tính ra tiền. Do đó, số doanh thương nhất định phải có nhiều sao tài hội tụ vào cung Quan, Tài, Mệnh, Thân. Có rất nhiều sao tài, hầu hết được liệt kê trong Các Cách Giàu, được tham chiếu để tìm hiểu thêm đặc tính của các nghề kinh thương.

b) Nghề kỹ nghệ
Trong quyển
Tử vi đẩu số, Thái Thứ Lang có chú giải rằng kỹ nghệ là "nghề nghiệp khó nhọc". Có lẽ đây là một quan niệm xưa, lúc kỹ nghệ cơ khí chưa xuất hiện, lúc con người còn ở giai đoạn bán khai về chế tạo đồ dùng cho nhu cầu hằng ngày. Quan niệm đó ngày nay không còn thích dụng. Vì vậy các sao của kỹ nghệ không thể là những bộ sao cũ kỹ được kể ra kể trên. Hiện thời sự phát triển của kỹ nghệ nảy sinh ra rất nhiều nghề hệ thuộc, đòi hỏi trình độ học vấn rất cao, và hơn nữa rất đắc lợi. Thành thử, những sao chỉ kỹ nghệ trong sách của Thái Thứ Lang, đa số thuộc hãm tinh, xét ra không mấy thích hợp. Vả chăng, chúng ta phải phân biệt kỹ nghệ gia với công nhân lao động làm việc về máy móc. Nếu nói kỹ nghệ là nghề nghiệp khó nhọc thì định nghĩa này chỉ đúng cho hạng lao động, thợ máy, thợ tiện, thợ dệt, thợ nhuộm, thợ rèn... chớ không áp dụng cho các chủ nhân, các nhà tư bản kỹ nghệ, chuyên viên hay kỹ sư, kỹ thuật gia hoạt động trong ngành kỹ nghệ.

Đối với hạng công nhân kỹ nghệ, các sao dưới đây có thể thích dụng:

- Phá Quân ở Dần Thân, Thìn Tuất
- Thất sát, Kình dương
- Vũ khúc, Phá Quân đồng cung
- Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung
- Thiên Cơ, Thiên hình, Kiếp sát
- Kình dương, Hỏa hay Linh tinh
- Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung

Những bộ sao trên không đắc địa, gần như có nghĩa bần hàng, cực khổ có thể thích hợp cho người làm công nhân.

Đối với hạng chủ nhân, chuyên viên, kỹ sư, tư bản hoạt động trong ngành kỹ nghệ, họ có sao học vấn cao, hoặc là có những bộ sao trên nhưng sáng sủa nhờ Tuần, Triệt hay ở vị trí đắc địa, đồng thời cũng phải có những bộ sao của nghề thương mại. Trong ngành kỹ nghệ nói riêng có hai sao dưới đây đáng lưu ý:

- Thiên Cơ

Sao này chỉ loại máy móc lớn nhỏ của ngành kỹ nghệ từ máy xe máy kéo, máy tiện cho đến máy tàu, máy luyện thép, máy khoan vv... Mặc khác, Thiên Cơ còn chỉ sự tinh xảo trong nghề nghiệp. Hai ý nghĩa này ghép lại chỉ người chuyên môn về máy móc. Đắc địa thì là kỹ sư, hãm địa thì là thợ máy.

Thiên cơ có thể đi chung với một số sao khác để xác định loại máy, loại nghề liên quan đến máy đó, ví dụ:

- Thiên Cơ, Hỏa tinh hay Linh tinh để chỉ máy hay lò luyện sắt thép, nấu quặng, hoặc máy tạo hơi nóng, máy sấy, máy phát điện.

- Thiên Cơ, Thái Âm hay Thiếu Dương, Thiếu Âm để chỉ máy điện và tất cả các loại máy móc gì sử dụng đến điện, cũng có thể là máy điện tử.

- Thiên Cơ, Thiên Mã, chỉ máy xe các loại (xe hơi, xe hỏa, xe điện) hay máy phi cơ, máy tàu thủy (coi như các phương tiện di chuyển biểu tượng bằng sao Thiên Mã)

- Thiên hình, sao này chỉ dao, kéo hay cơ khí, nói chung các sản phẩm kỹ nghệ bằng kim khí.

Với hai sao này, một sao chỉ máy móc, một sao chỉ sản phẩm kim khí chế tạo được, khoa tử vi rất nghèo nàn khi mô tả kỹ nghệ và các nghề liên quan đến kỹ nghệ. Ngành này tương đối mới mẻ cho nên khoa Tử vi chưa có đào sâu. Hơn nữa, khoa này học về sự thịnh suy của vận số con người hơn là khảo cứu nghề nghiệp và càng không phải là khoa kỹ nghệ.

3) Những nghề liên quan đến Khoa học ứng dụng

Trong lĩnh vực này, khoa tử vi cũng nghèo nàn. Chỉ thấy được các nghề điện, nha, dược, y và nghề kiến trúc.

a) Nghề điện có các sao tượng trưng dưới đây:

- Thái dương, Thái âm
- Thiếu dương, Thiếu âm
- Hỏa tinh, Linh tinh

Bộ sao này chỉ các thể khí đối lập và tạo nhiệt, có thể hình dung được điện học hay điện tử, cùng với những ứng dụng phức tạp của hai ngành này.

b) Nghề Nha

- Tuế phá, chỉ bộ răng
- Thiên hình hay Kiếp sát chỉ sự mổ xẻ, chắp vá
- Tấu thư hay Hồng loan chỉ khéo tay, tinh xảo

c) Nghề dược có hai sao cụ thể là :

- Thiên y chỉ thuốc men
- Hóa kỵ chỉ các dung dịch, hóa chất bào chế

d) Nghề Y

Nghề này có khá nhiều sao biểu diễn. Vì y sĩ là người cứu độ thiên hạ và là người có hiểu biết về y khoa cho nên phải có những sao chỉ hai loại năng khiếu đó.

*
Về mặt cứu độ có những sao cứu độ có y tinh phải kể là :

- Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương

Bốn sao này gồm bộ phúc tinh, chỉ sự làm việc nghĩa. Người có cách này có thiên tính, hay giúp đỡ kẻ khác, có khuynh hướng xã hội rất cao, hay làm phúc, tích phúc, tạo phúc và có cơ hội tích phúc. Tuy không trực tiếp có ý nghĩa y học, song đây là bộ sao cứu độ cần thiết cho y sĩ.

- Thiên Tướng

Sao này biểu tượng cho vị cứu tinh của nhân loại, mang lại công bình, hạnh phúc cho nhân thế trong tinh thần cứu nhân độ thế. Thiên tướng là vị tướng của Trời, dĩ nhiên được dùng để cứu rỗi hơn là để sát phạt.

- Thiên Y

Tuy là phụ tinh nhưng Thiên y trực tiếp nói về y học. Người có Thiên y có tính sạch sẽ, vệ sinh và có năng khiếu về thuốc men. Ngoài ra, Thiên y cũng có nghĩa cứu giải bệnh tật và có nghĩa hay dùng thuốc khi có bệnh.

Những sao trên cần đóng ở cung Mệnh, Thân hay Quan mới có điều kiện cứu độ của một y sĩ, mới có triển vọng hành nghề nhiều nhất. Nếu đóng ở Tài thì y sĩ này có xu hướng lý tài, trục lợi và bóc lột bệnh nhân, mặc dù ở cung đó, tài lộc sẽ được dồi dào hơn ở vị trí khác.

Ngoài ra, còn có những sao trợ, ý nghĩa là làm tăng thêm triển vọng cho nghề thuốc, đồng thời cũng tạo thêm phúc đức thực tại cho đương số.

- Ân Quang, Thiên quý
- Thiên quan, Thiên phúc
- Tả phù, Hữu bật

Ân Quang, Thiên Quý chỉ cái phúc do Trời ban cho. Đi với bộ sao bác sỹ, ông này sẽ được nổi tiếng nhờ mát tay, nhờ hên may, được linh thiên phù trợ, soi sáng dẫn dắt trong vấn đề trị liệu. Đồng thời Quang, Quý cũng nói lên tinh thần vị tha cao độ của một y sĩ có lương tâm chức nghiệp, yêu nghề, tin nơi nghề và được nghề đãi ngộ xứng đáng, lấy việc cứu người làm lẽ sống cao cả, ít quan tâm đến khía cạnh tiền bạc của nghề thuốc.

Thiên Quan, Thiên Phúc cũng là phúc tinh, nó lên xu hướng xã hội của y sĩ. Bốn sao này, y sĩ hay bố thí, cứu người không lấy tiền, làm việc với sự tận tâm và vị tha nhờ đó mà được nổi danh bác ái kiểu như Albert Swmeitzer.

Còn Tả phù, Hữu bật, trong cách y sĩ cũng có nhiều ý nghĩa cứu độ làm phúc, nhưng thông thường, hai sao này nặng về ý nghĩa đắc thời, có sự nghiệp y dược lớn, cụ thể như có bệnh viện riêng, được bác sỹ, y tá trợ giúp. Với Tả, Hữu, y sĩ không làm việc một cách đơn độc mà hành nghề chung với một tập đoàn y sĩ khác, hùn hạp chung vốn, chung sức trong một bệnh viện.

- Thiên giải, Địa giải, Giải Thần

Đứng về mặt y học, ba sao này có hiệu lực hóa giải bệnh tật. Người có bệnh gặp các sao này thì mau hết bệnh vì gặp thầy, gặp thuốc. Còn Y sĩ mà có ba sao này thì cứu mạng và chữa trị rất công hiệu cho bệnh nhân.


Về năng khiếu chuyên khoa:  Có thể nói rằng các ngành chuyên khoa trong y học không được phát triển trong xã hội Trung hoa thời xưa.  Chỉ thấy thời đó có hai phương pháp trị liệu là bằng thuốc men và bằng giải phẩu.  Không thấy nói đến các chuyên khoa trên các bộ phận chính của cơ thể hoặc trên y học kỹ thuật. 

Dựa trên ý nghĩa cơ thể và kỹ thuật của một số sao ta có thể suy diễn tạm thời hai loại chuyên khoa: một về kỹ thuật và một về cơ thể. 

* Những chuyên khoa có tính chất kỹ thuật do những sao dưới đây diễn tả:

- THÁI ÂM, THÁI DƯƠNG
Đây là hai loại khí đối lập của trời đất, có thể tượng trưng cho điện khí.  Ứng dụng vào y học kỹ thuật, y sĩ nào có thêm sao Âm, Dương chiếu có thể là bác sỹ điện hay chụp hình hoặc là bác sỹ sử dụng các phương pháp chữa trị bằng điện, bằng quang tuyến hay tia phóng xạ.

- THIẾU ÂM, THIẾU DƯƠNG:
Hai sao này có ý nghĩa tương tự như trên, duy vì nó chỉ yếu tố âm dương cực nhỏ cho nên có thể đồng hóa với điện tử nhưng với tầm ứng dụng thực nghiệm đang phát triển cao độ hiện nay.

- THIÊN HÌNH, KIẾP SÁT:
Chỉ dụng cụ mổ xẻ, cho nên ngành ứng dụng là giải phẩu, chắp vá, thay thế bộ phận tự nhiên bằng bộ phận nhân tạo có tính cách kỹ thuật (tim nhân tạo, thận nhân tạo).

Những chuyên khoa trong cơ thể bao gồm các ngành đặc biệt dưới đây:

- Thái âm, Thái dương:
Âm, Dương là hai mắt và hệ thần kinh đồng thời cũng là tâm linh con người.  Vì vậy, bác sỹ nào có hai sao này có thể là bác sỹ nhãn khoa, bác sỹ thần kinh hay tâm linh.

- Tuế phá: vì chỉ bộ răng nên sẽ là bác sỹ nha khoa

- Phá toái, long trì, phượng các: Phá toái chỉ cuống họng, Long trì là lỗ mũi, Phượng các là lỗ tai.  Ba sao này ứng dụng với ngành Tai Mũi Họng.

- Mộc dục, Thai hay Đào hoa, Hồng loan:
Mộc dục chỉ tử cung, Thai chỉ bào thai, âm hộ. Đào hồng chỉ phụ nữ.  Đây là bác sỹ trị bệnh đàn bà, bác sỹ chuyên trị khoa sản, thai sản và các bệnh liên quan đến hạnh phúc lứa đôi.

- Hỷ thần: bác sỹ chuyên về TRĩ vì Hỷ thần là hậu môn

- Thiên Riêu, Kình dương: hai sao này liên quan đến bộ phận sinh dục, nhất là của phái nam. Đi với bộ sao y sĩ , ngành chuyên khoa sẽ là bệnh phong tình hay các bệnh phụ tùy của cơ quan sinh dục như liệt dương, teo chim..

- Bạch hổ, địa kiếp: hai sao này tương ứng với bệnh Ung Thư

- Thiên hình, Kiếp sát: Đây là bác sỹ châm cứu
- Đào hoa, Hồng loan, Hoa cái: ba sao này có nghĩa chưng diện, làm dáng. Ngành chuyên khoa sẽ là thẩm mỹ, chuyên sửa sắc đẹp.

- Thiên mã, Kình dương, Đà la: Các sao này chỉ chân tay, liên quan đến ngành chỉnh hình, làm chân tay giả, huấn luyện cử động hoặc là chuyên khoa của bệnh tê liệt, bại liệt.

- Ngoài ra, nếu không có chuyên khoa nào nhưng có cao Hóa kỵ (chỉ hóa chất, thuốc men)  thì đây là bác sỹ trị liệu tổng quát, đa khoa.

- Nếu các sao trên không hẳn nói lên ngành chuyên khoa của y sĩ thì có thể liên quan đến luận án của họ.  SAu cùng nếu có thêm Thái tuế, Lưu hà, Hóa khoa, Văn xương, Văn khúc thì có dạy và sáng tác về y khoa.  Nếu có thêm Khôi, Việt thì trong ngành chuyên môn, đương số rất nổi danh có thể là Chủ Tịch Hội Đồng Y khoa hay Chủ tịch Y Sĩ Đoàn.

---- còn tiếp-----


  

No comments:

Post a Comment